Những đánh giá bao trùm của Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là nhận diện được hiện trạng, tiềm lực kinh tế, cơ hội lẫn thách thức để đưa ra chiến lược, dự báo phát triển tương lai.
Quy hoạch tỉnh không phải là “mảnh ghép” rời rạc của các lãnh thổ mà là sự liền mạch, kết nối các vùng, xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để khai thác hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, lợi thế so sánh của tỉnh.
Quảng Nam sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên 4 trụ cột chính, gồm: du lịch; công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp năng lượng; thương mại - dịch vụ logistics; nông - lâm nghiệp, thủy sản ứng dụng công nghệ cao.
Liền mạch lãnh thổ
Cấu trúc không gian phát triển trong đồ án quy hoạch tỉnh xác định: “hai vùng, hai cụm động lực, ba hành lang phát triển”. Động lực phát triển kinh tế của tỉnh tựu trung ở 2 khu vực: vùng Đông và vùng Tây. Vùng Đông gồm các huyện, thị xã, thành phố đồng bằng ven biển. Vùng Tây gồm các huyện miền núi.
Ba hành lang phát triển gồm: Hành lang động lực kinh tế ven biển từ đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đến ven biển; hành lang dọc đường Đông Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh; hành lang dọc quốc lộ 14B và quốc lộ 14E nối lên quốc lộ 14D đến Cửa khẩu quốc tế Nam Giang.
Trước khi đồ án quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt, Quảng Nam đã tranh thủ lấy ý kiến góp ý hoàn thiện quy hoạch của nhiều tỉnh thành trong khu vực.
Bởi, quy hoạch tỉnh không thể tách rời quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Không gian lãnh thổ đảm bảo cân đối, hài hòa trong phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường và xác định được dư địa phát triển.
Chẳng hạn, Đà Nẵng hội tụ nhiều nguồn lực thu hút đầu tư về tài chính, con người, khoa học kỹ thuật… hơn Quảng Nam, song dư địa phát triển của thành phố này không còn nhiều khi quỹ đất ngày một thu hẹp trong khi Quảng Nam còn quỹ đất trống ven biển khá lớn ở vùng Đông và một không gian lý tưởng cho động lực tăng trưởng xanh ở vùng Tây.
Lãnh thổ vùng liên huyện phía đông gồm các huyện, thị xã, thành phố theo đơn vị hành chính thuộc khu vực đồng bằng sẽ tổ chức không gian phát triển kinh tế biển, dịch vụ, du lịch, công nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao; là khu vực tập trung các đô thị lớn, nơi bố trí trung tâm hành chính của tỉnh, các trung tâm giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao lớn của tỉnh; là đầu mối giao thông, giao lưu của tỉnh Quảng Nam nói riêng và của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung nói chung.
Trong khi đó, vùng liên huyện phía tây gồm các huyện theo đơn vị hành chính thuộc khu vực miền núi phát triển không gian trồng trọt, chế biến nông - lâm - dược liệu và du lịch; công nghiệp thủy điện, khoáng sản, kinh tế cửa khẩu; cửa ngõ kết nối giữa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung Việt Nam với các tỉnh Nam Lào, Đông - Bắc Thái Lan.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Lê Trí Thanh, quy hoạch tỉnh đảm bảo sự phát triển cân bằng, hài hòa về mặt kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường bền vững giữa vùng đông và vùng tây; mỗi không gian lãnh thổ định vị các lĩnh vực quan trọng có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của khu vực trong tương lai. Việc hình thành các cụm động lực để hỗ trợ bổ sung cho nhau phát triển, phát huy vai trò đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế.
Dẫn dắt nền kinh tế đi lên
Trong đồ án quy hoạch tỉnh, Quảng Nam xác định một số ngành, lĩnh vực trọng điểm thúc đẩy cả nền kinh tế phát triển.
Cụ thể, tỉnh định hướng phát triển công nghiệp theo hướng kinh tế tuần hoàn, chuyên môn hóa, tự động hóa cao; tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo và trở thành trụ cột chính trong nền kinh tế.
Phát triển công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, sản phẩm cơ khí, điện, điện tử, công nghiệp hỗ trợ gắn với dịch vụ hậu cần, logistic cảng biển, sân bay, đường sắt.
Vai trò chủ đạo vẫn là Khu kinh tế mở Chu Lai, ưu tiên xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghiệp công nghệ cao tại để thu hút các dự án chiến lược mang lại giá trị gia tăng cao, đóng góp ngân sách lớn.
Theo Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Quảng Nam có nhiều lợi thế, tiềm lực để phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, sản phẩm cơ khí trong một số lĩnh vực máy nông nghiệp, thiết bị công nghiệp.
Phát triển khu phức hợp ô tô Chu Lai - Trường Hải tại Khu công nghiệp Tam Hiệp, Tam Anh có quy mô ngang tầm khu vực. Chuyển động là thời gian qua tại Khu kinh tế mở Chu Lai đã hình thành trung tâm cơ khí đa dụng và ô tô quốc gia.
Thương mại, dịch vụ và du lịch cũng được xem là kinh tế mũi nhọn của từng vùng. Theo định hướng, tỉnh sẽ phát triển Cảng hàng không quốc tế Chu Lai và hệ thống cảng biển gắn với các khu phi thuế quan, khu công nghiệp; xây dựng trung tâm logistics tại Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Nam Giang phục vụ hàng hóa từ Thái Lan, Lào vào Việt Nam và ngược lại.
Thêm nữa, Quảng Nam lại rất giàu tài nguyên du lịch thiên nhiên (các bãi biển, đảo, sông, hồ, núi rừng đẹp); tài nguyên di sản văn hóa thế giới (phố cổ Hội An, Đền tháp Mỹ Sơn, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm); hơn 120 lễ hội dân gian tiêu biểu, đặc biệt nghệ thuật hát Bài chòi đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Trong đồ án quy hoạch, Quảng Nam được đặt ở “Vị trí trung điểm kết nối du lịch vùng”, liên kết các di sản văn hóa với tài nguyên du lịch biển trong tổng thể trung tâm du dịch miền Trung là Huế - Đà Nẵng - Hội An.
Trong những năm qua, ngành du lịch ngày càng khẳng định vai trò và đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong khi đó, phát triển nông nghiệp của tỉnh sẽ gắn với sản xuất các sản phẩm OCOP, đưa Quảng Nam trở thành địa phương dẫn đầu trong vùng về số lượng, chủng loại, chất lượng sản phẩm OCOP gắn với phong trào khởi nghiệp.
Mở rộng diện tích trồng các loại cây dược liệu dưới tán rừng với sâm Ngọc Linh là sản phẩm chủ lực để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hình thành trung tâm công nghiệp dược liệu.
Phấn đấu trở thành tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới trước năm 2035
Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2050 xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới (NTM) đến năm 2025 có 160 xã (chiếm 80% số xã) đạt chuẩn; trong đó 64 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 16 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Không còn huyện không có xã đạt chuẩn NTM, không còn xã đạt dưới 15 tiêu chí.
Có 9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM (trong đó có 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM nâng cao và NTM kiểu mẫu). Phấn đấu trở thành tỉnh đạt chuẩn NTM trước năm 2035; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 1,36 lần so với năm 2020...
Để thực hiện mục tiêu trên, quy hoạch tỉnh đưa ra giải pháp: Tiếp tục quán triệt và tuyên truyền nâng cao nhận thức đến tất cả cán bộ, đảng viên, tổ chức, đơn vị và toàn thể nhân dân xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt, “có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc”.
Xây dựng, rà soát quy hoạch, hệ thống cơ chế, chính sách, kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025 đáp ứng yêu cầu phát triển giai đoạn mới. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đồng bộ, đảm bảo kết nối nông thôn - đô thị và kết nối các vùng miền.
Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, đẩy mạnh khởi nghiệp sáng tạo.
Chú trọng công tác giảm nghèo và an sinh xã hội một cách bền vững, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Nâng cao chất lượng hạ tầng xã hội, xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống gắn với phát triển kinh tế du lịch nông thôn. Hệ thống chính trị vững mạnh, giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội. (HÀ QUANG)