Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, chiến dịch giải phóng Quảng Nam - Đà Nẵng năm 1975 là một trong những mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ chiến thắng Thượng Đức năm 1974 đến chiến dịch Tiên Phước - Tam Kỳ và cuối cùng là giải phóng Đà Nẵng, mỗi bước tiến đều thể hiện sự quyết tâm, lòng dũng cảm và tinh thần đoàn kết của quân và dân ta.
Giữa năm 1974, Ban Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy 5 quyết định mở chiến dịch tổng hợp Thu 1974, xác định Quảng Nam và Quảng Đà là chiến trường trọng điểm. Trong đó nhấn mạnh: “Giải phóng khu vực Thượng Đức sẽ tạo thế uy hiếp thành phố Đà Nẵng từ hướng Tây Nam, tạo thuận lợi chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở địa bàn Quân khu 5”.
Sáng ngày 29/7/1974, Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304, Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 phối hợp với quân, dân Quảng Đà và quân, dân huyện Đại Lộc nổ súng tấn công chi khu quân sự Thượng Đức.
Sau 10 ngày chiến đấu quyết liệt, ngày 7/8/1974, Lá cờ quyết chiến quyết thắng đã tung bay trên Chi khu quân sự Thượng Đức.
Chiến thắng Thượng Đức không chỉ mở toang "cánh cửa thép" tiến về giải phóng Đà Nẵng mà còn có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần vào nhận định và quyết sách cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương.
Từ ngày 18/12/1974 đến 8/1/1975, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đã bổ sung, hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam và thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976.
Đầu tháng 2/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu cho trận then chốt mở màn chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975.
Quân khu 5 đảm nhận mở chiến dịch Tiên Phước - Tam Kỳ để phối hợp với hoạt động tiến công ở Tây Nguyên.
Ngày 10/3/1975, 4 giờ 30 phút, trận đánh bắt đầu, đến 16 giờ quân ta đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt chi khu quận lỵ Tiên Phước - Phước Lâm và cụm cứ điểm Suối Đá.
Trận này, 21.000 dân được giải phóng, hơn 2.000 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu.
10 giờ 30 phút ngày 24/3, thị xã Tam Kỳ hoàn toàn được giải phóng, trở thành tỉnh lỵ đầu tiên trên quốc lộ 1A ở miền Nam được giải phóng.
Ngày 24/3, huyện Nam Tam Kỳ (nay là huyện Núi Thành) được giải phóng.
Ngày 26/3, lực lượng vũ trang ta tiếp quản quận lỵ Thăng Bình.
Chiều ngày 26/3/1975, huyện Quế Sơn được giải phóng.
Sáng 28/3, huyện Đại Lộc hoàn toàn được giải phóng.
Ngày 28/3/1975, huyện Duy Xuyên được hoàn toàn giải phóng.
7 giờ sáng ngày 29/3, thị xã Hội An hoàn toàn giải phóng, sau đó quân ta tiếp tục tiến ra giải phóng Cù Lao Chàm.
7 giờ ngày 29/3, giải phóng thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn hoàn toàn được giải phóng.
Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận chỉ đạo các cánh quân giải phóng Đà Nẵng phải quán triệt tư tưởng “5 nhất”: kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng nhất.
Mờ sáng ngày 28/3, từ căn cứ Hòn Tàu, tất cả cán bộ chỉ huy của Khu ủy 5 và Đặc khu ủy chia làm 2 hướng tiến về Đà Nẵng.
11 giờ 30, ngày 29/3/1975, lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Tòa thị chính ngụy, thành phố Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng.
17 giờ ngày 29/3/1975, các đồng chí lãnh đạo Khu ủy 5 tiến bước vào thành phố Đà Nẵng.
19 giờ 30 phút ngày 29/3, điện báo cáo Bộ Chính trị: “Đà Nẵng giải phóng rồi”!
Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: "Tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng sớm ngoài kế hoạch... có ý nghĩa quyết định và báo hiệu Sài Gòn sẽ bị sụp đổ không còn lâu nữa".
Sau giải phóng, với khẩu hiệu: “Sài Gòn chưa giải phóng, Đà Nẵng chưa yên”, thành phố đã huy động 300 xe đưa bộ đội và vũ khí vào Nam phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh.
Sự kiện giải phóng Quảng Nam và Đà Nẵng, tạo điều kiện và góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Nội dung: LÊ NĂNG ĐÔNG - DOÃN THÀNH TRÍ
Trình bày: MINH TẠO