Đang hiển thị
Tỉnh thành khác
Thứ Ba, 04/03/2025
(Xuân Ất Tỵ) - Với đặc điểm vô cùng đặc biệt, cua đá trở thành “sinh vật chỉ thị - indicator species” cho chất lượng rừng, nguồn nước, phản ảnh sinh động, trực quan diễn thế các sinh cảnh trong mối liên kết từ rừng xuống biển tại Cù Lao Chàm.
Mô hình “Khai thác văn minh cua đá Cù Lao Chàm” là câu chuyện sinh động trong bức tranh chung bảo tồn hệ sinh thái của khu dự trữ sinh quyển thế giới; đã thực sự làm cho tài sản của địa phương mang tầm ý nghĩa toàn cầu, như mong đợi của UNESCO.
Khởi động trong sự “hoài nghi”
Trước năm 2000, Cù Lao Chàm được biết đến là đảo có 2.400 cư dân sinh sống trong 600 nóc nhà, nghèo khó mọi mặt. Có đến 85% hộ dân kiếm sống bằng nghề đánh bắt thủy sản nhỏ lẻ, ven bờ. Mỗi năm Cù Lao Chàm vẫn phải nhận hàng cứu trợ sau những cơn bão, mùa biển động và dịp tết đến.
Khi cuộc sống còn bấp bênh thì sự ra đời của Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm càng tăng phần lo lắng về kế sinh nhai, cá tôm đánh bắt chưa đủ trang trải cuộc sống nhưng họ phải nhường ngư trường cho bảo tồn, tàu thuyền đang đánh bắt hải sản cũng được khuyến nghị cải hoán sang tàu du lịch. Mọi thứ đều rất mới, lạ lẫm và đầy hoài nghi về tương lai của xã đảo với những viễn cảnh mà khu bảo tồn đang bắt đầu xây dựng.
Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm khởi động bằng rất nhiều hoạt động như nghiên cứu khoa học, định vị tài nguyên (thiên nhiên - nhân văn), các chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về tầm quan trọng của tài nguyên để hướng đến quá trình “khai thác bền vững”...
Để làm được việc này, người dân phải chấp hành rất nhiều quy định, như không khai thác trong rạn san hô, thảm cỏ biển thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, một số nghề bị giới hạn không gian hoạt động, nhiều loài bị cấm khai thác để bảo tồn nguồn gen quý hiếm của thế giới...
Khởi đầu đầy hoài nghi của người dân là vậy nhưng riêng cua đá, đó là một sự chuyển biến ngoạn mục từ nhận thức, hành động để đạt được kết quả mỹ mãn, làm nên thương hiệu Cù Lao Chàm.
TS. Marianne Damholdt Bergin (Đại học Aahurs, Đan Mạch) là người đầu tiên nghiên cứu tổng thể về sinh học, sinh thái, sinh sản của cua đá (Gecarcoidea lalandii) tại Cù Lao Chàm.
Sau 3 năm nghiên cứu (2003 - 2006), đã cho ra nhiều kết quả quan trọng và được áp dụng trong quản lý, khai thác tài nguyên này. Theo đó, cua đá sống trong các hang hốc, gần các con suối trên rừng, thức ăn của chúng là các loại lá cây, trái cây, côn trùng trong lớp mùn bề mặt.
Cua đá mất 15 - 16 năm để trưởng thành với kích thước mai tương ứng 7cm. Vào mùa sinh sản (tháng 8 - 12), mỗi con cua mái ôm khoảng 30.000 - 40.000 trứng (thực ra là ấu trùng), men theo các con suối di chuyển xuống mép biển để khảy ấu trùng vào nước biển. Sau 7 - 10 ngày, cua con bắt đầu hành trình ngược dòng theo các con suối trở về rừng và sinh sống cho đến khi thành thục.
Khai thác văn minh
Ba năm sau khi vận hành khu bảo tồn, Cù Lao Chàm - Hội An chính thức được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển vào ngày 26/5/2009. Lượng khách đến đảo bắt đầu tăng đột biến, kéo theo nhu cầu sử dụng thực phẩm vô cùng lớn. Tình trạng “người người nhà nhà đi bắt cua” đã nhanh chóng đẩy cua đá đến bờ cạn kiệt.
Trước tình hình đó, TP.Hội An đã khẩn cấp ban hành “lệnh cấm khai thác, mua bán tiêu thụ cua đá” tại Chỉ thị số 09/2009. Người dân rất lo lắng và đã nghĩ ra nhiều cách để “lách luật”. Lúc này, các kết quả nghiên cứu về cua đá chính là chìa khóa duy nhất có thể mở được “lệnh cấm” của thành phố.
Các nhà bảo tồn cùng với cộng đồng đã vào cuộc, bắt đầu việc “mở khóa” bằng cách tìm giải pháp cho các câu hỏi: Ai được phép bắt cua, bắt khi nào, bắt ở đâu, bắt như thế nào, quản lý và tiêu thụ ra sao… Đây chính là các nội dung của mô hình “Cộng đồng khai thác và bảo vệ cua đá Cù Lao Chàm”.
Quá trình thí điểm từ năm 2010 và tiếp tục hoàn thiện trong những năm tiếp theo đã dần mở được “lệnh cấm” của thành phố và được giới khoa học gọi là “khai thác văn minh cua đá Cù Lao Chàm”.
Sự văn minh được thể hiện rất rõ trong quy trình khai thác, quản lý, tiêu thụ cua đá. Đó là: (1) Chỉ thành viên tổ cộng đồng mới được phép bắt cua; (2) Số lượng cua mỗi năm được phép khai thác (Quota) do tổ cộng đồng quyết định dựa trên sự tư vấn của các nhà khoa học và sự giám sát của chính quyền địa phương; (3) Thời gian được phép khai thác từ ngày 1/3 đến 31/7 hằng năm; (4) Kích thước mai cua tối thiểu được phép khai thác là 7cm; (6) Không khai thác cua mái đang mang trứng/bè; (7) Tất cả cua khai thác về phải được trình báo tổ cộng đồng để đo kích thước, cân trọng lượng, kiểm tra các chỉ tiêu và tiến hành dán nhãn sinh thái trước khi bán.
Nếu chỉ đơn thuần là thực phẩm, cua đá Cù Lao Chàm khó xưng danh với Cồn Cỏ, Lý Sơn hay thậm chí là Sơn Trà về số lượng. Ở đây, sự văn minh trong sử dụng tài nguyên của cộng đồng và trách nhiệm các bên đã nâng giá trị cua đá một cách xứng đáng.
Trước năm 2000, việc mua bán cua chỉ để làm quà vào đất liền với giá chỉ khoảng 2.000 đồng/con (người dân gọi là trả công cho người đi bắt). Ít ai ngờ rằng, chỉ sau vài năm vận hành mô hình, cua đá trở thành sản vật rất quý cho du khách khi đến đảo, giá niêm yết tại tổ cộng đồng là 800 nghìn đồng/kg (tương ứng 200 nghìn đồng/con, năm 2019), tăng 100 lần so với trước năm 2000.
Giải thích thắc mắc của du khách, nhà quản lý, thậm chí nhà khoa học là tại sao cua đá Cù Lao Chàm bán được giá cao vậy, ông Trần Công (thủ lĩnh tổ cộng đồng) cho hay: “Người dân Cù Lao Chàm nhận thức rằng cua đá là sản vật tại vùng lõi khu dự trữ sinh quyển, nơi mà UNESCO và cộng đồng quốc tế ghi nhận tính nổi trội về tài nguyên và giao cho chúng tôi sứ mệnh vừa phát triển sinh kế, vừa bảo tồn được nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau.
Niềm vinh dự này đã trở thành động lực để anh em chúng tôi quyết tâm thực hiện thành công mô hình”. Và ông nhấn mạnh như muốn gửi gắm thông điệp đến cộng đồng và thế hệ trẻ: “Chúng ta không bán cua đá, chúng ta bán câu chuyện cộng đồng khai thác văn minh cua đá”.
Và câu chuyện này đáng để tham khảo về phương cách bảo tồn những loài đặc hữu ở nhiều khu vực đặc thù...