Dòng nước đầu tiên từ công trình đập Phú Ninh chảy về chân ruộng trong niềm hân hoan của người dân, đã mở ra bước chuyển mình cho nền nông nghiệp xứ Quảng. Và đáng quý hơn, dòng nước từ công trình kỳ tích này là thành quả của rất nhiều kỳ tích khác, đến từ những tấm lòng trượng nghĩa vì quê hương.
Ký ức ngày xây đập
Rất nhiều hạng mục đập, kênh thuộc công trình đại thủy nông Phú Ninh trải qua gần 45 năm, dù đối mặt thời tiết khắc nghiệt, nhưng vẫn vận hành hiệu quả. Lý giải về độ bền bỉ của công trình, “kiện tướng” xây đập Phú Ninh - bà Lê Thị Phương (ở thôn Phú Tân, xã Tam Phước, Phú Ninh) nói, chất lượng thi công luôn là yếu tố được đặt lên hàng đầu, trong đó độ kết dính của đất đóng vai trò quyết định.
Những năm xây đập Phú Ninh, cô gái nhỏ nhắn Lê Thị Phương được anh chị em trong Đại đội Tam Phước khâm phục, bởi tinh thần hăng say, sức lao động phi thường. Từ tìm đất, gánh, ban đất, cho đến tưới nước, đầm…, việc nào Phương cũng giỏi.
“Đất xây đập do anh em thanh niên xung phong tìm kiếm, gánh về thì đủ loại, nên tính kết dính sẽ khác nhau. Làm nhiều, nhìn màu đất mà phân biệt để tưới lượng nước phù hợp. Nhiệm vụ quyết định còn lại thuộc về tổ đầm đất.
Mỗi tổ 12 người, cứ 2 người đảm nhận một cây đầm. Mỗi người giữ một đầu cây đầm, khi có tiếng còi hiệu thì 6 cây đầm đồng loạt nhích lên, đầm xuống, đảm bảo nền đất chặt và bằng phẳng như nhau. Đầm liên tục đến khi ướm gót chân, thấy đất không dính, không rã là đạt yêu cầu” - bà Phương kể.
Ông Bùi Cảnh (thôn Đại Đồng, xã Tam Lộc) nhớ lại, thi công kênh chính từ Phú Ninh ra tận Quế Sơn, nhưng chỉ vài vị trí đầu mối có bố trí máy xúc. Xe cải tiến thì những năm cuối mới được trang bị, nhưng số lượng không nhiều. Công việc phần lớn phải vận dụng sức người để cuốc, xới, gánh, đầm…
“Đập đắp càng cao thì công việc càng vất vả, nhất là lực lượng gánh đất. Họ mở lối đi trên thân đập thành hình bậc thang để di chuyển. Những khối đất nặng oằn trên bờ vai chai cứng, nhưng đôi chân trần vẫn tiến bước, không ngừng nghỉ, để từng hạng mục hoàn thành” - ông Cảnh nói.
Ngày 29/3/1977, công trình đại thủy nông Phú Ninh khởi công. Đến năm 1980, dòng nước đầu tiên của Phú Ninh đã dẫn tới cánh đồng xã Tam Xuân và các xã phía nam của Tam Kỳ. Năm 1981, nước đã về đến kênh N14 tưới cho HTX Bình Trung (Thăng Bình) và cuối cùng nước hồ Phú Ninh đã vượt qua sông Ly Ly để về đến Quế Sơn (1983). Sau hơn 9 năm xây dựng, ngày 27/3/1986, công trình đại thủy nông Phú Ninh khánh thành. Càng ý nghĩa hơn, khi công trình thế kỷ này là thành quả của tinh thần dám nghĩ dám làm của đội ngũ cán bộ lúc bấy giờ, là chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được phát huy ở mức cao nhất trong một cuộc vận động sức người chưa từng có của Quảng Nam sau ngày giải phóng.
Cuộc di dân lịch sử
Vùng đất dưới Eo Gió (thuộc thôn Cẩm Long, xã Tam Lộc) hôm nay phủ lên sắc xanh của cây trái, hoa màu, đánh dấu thành quả hơn 45 năm người dân khai hoang, lập làng. Họ là những người đã chọn rời đi, bỏ lại mồ mả tổ tiên, nhà cửa, ruộng vườn tốt tươi, để “dọn chỗ” cho ngày hồ Phú Ninh đóng nước.
Ông Thái Viết Siêu - Trưởng ban Vận động di dời xã Tam Dân, năm nay đã 82 tuổi, không thể đi lại, song ký ức về ngày lập làng vẫn còn hằn sâu…
Ông Siêu kể, cả làng Long Sơn (nơi ở cũ của nhiều người dân thôn Cẩm Long) vào năm 1979 có 97 người, với hơn 70 hộ. Bà con đều là dân nông, không ngại khó, ngại khổ nhưng rời làng tay trắng, phải kiếm sống trên miền đất mới chẳng dễ dàng. Với nhiệm vụ của trưởng làng, ông Siêu trăn trở rất nhiều về việc chọn nơi ở mới. Sau khi khảo sát nhiều nơi, ông cùng vài thanh niên trong làng vác theo cuốc, rựa khai hoang vùng đất dưới Eo Gió.
“Đó là vùng đất đồi khô cằn. Thời ấy, chúng tôi mang sức trẻ thanh niên, phá núi, san đồi, làm mặt bằng dựng nhà. Được hỗ trợ tranh, chúng tôi dựng tạm 70 mái nhà, rồi bốc thăm chọn vị trí cho từng hộ. Song song với đó là khai mở đất hoang cấy lúa, trồng khoai, tỉa đậu, rồi nuôi thêm heo gà. Khi nơi ở mới đã ổn định thì cả làng mới bắt đầu di dân…” - ông Siêu nhớ lại.
Khác với vùng đất dưới kênh chính Phú Ninh, phía Eo Gió luôn đối diện cảnh thiếu nước. Nhiều vụ tay trắng vì nắng hạn, phải chờ nước trời; cây trồng thì bị chim chuột trong núi cắn phá. Trong những ngày gian khó đó, 70 hộ luôn đoàn kết, gắn bó. Họ giúp nhau dựng nhà, làm nông. Hộ nào khó khăn, không đủ sức lao động thì được nhường cơm, sẻ áo.
Nhiều đôi trai gái nên duyên, sinh con đẻ cái, lập hộ mới. Dần dà, vùng đất chuyển mình, thêm nhiều mái nhà được dựng lên giữa màu xanh ruộng vườn, thu hút người dân vùng khác đến làm ăn, sinh sống. Đến nay, thôn Cẩm Long có khoảng 450 hộ...
Trong cuộc di dân lịch sử vì công trình thủy nông Phú Ninh, theo thống kê, có khoảng 11.000 người thuộc các xã Tam Sơn, Tam Lãnh, Tam Thái, Tam Dân (Phú Ninh) đã chấp nhận rời bỏ lòng hồ để đến nơi khác. Với tinh thần “khó vạn lần dân liệu cũng xong”, những vùng đất tái định cư mới ở Tam Trà (Núi Thành), Tam Lộc (Phú Ninh), Tiên Lập, Tiên An (Tiên Phước) hay vùng Trà My nay cũng khoác lên mình diện mạo nông thôn mới.
Ấm no theo nước về
“Nếu không có hồ Phú Ninh chắc chết đói, chết khát”, đó là tâm sự chung của nhiều nông dân Núi Thành, Tam Kỳ, Phú Ninh, khi nhắc nhớ lại những ngày làm lúa chờ nước trời.
Ông Nguyễn Văn Tráng (thôn Ngọc Bích, xã Tam Ngọc, TP.Tam Kỳ) tâm sự, sau ngày giải phóng, bà con Tam Ngọc chỉ sạ được một vụ đông xuân nhưng thấp thỏm chờ nước. Còn vụ hè thu thì đất đai khô cằn, cuốc xuống nhấc lên cũng khó, chỉ có thể trồng sắn. Nhưng cuối vụ, lũ về, không kịp thu hoạch thì coi như mất trắng.
Còn theo lời kể của ông Phạm Hồng Phước (xã Tam Phước, Phú Ninh), khi chưa có nước Phú Ninh, bà con vẫn làm mỗi năm 2 vụ nhưng rất vất vả.
Có vụ hè thu khô hạn mấy tháng liền, đồng khô cỏ cháy, cuốc xuống là bụi bay mù trời. Có năm, bà con phải thắp đuốc lên phía Tam Lộc, cách đồng Tam Phước chừng 4 cây số để dẫn nước về, nhưng canh giữ trắng đêm... May mắn, năm 1980 nước Phú Ninh đã về tới chân ruộng, chứ không người dân sẽ dìu dắt nhau đi tìm miền đất mới.
Sau ngày giải phóng, cả tỉnh chỉ sản xuất lúa, chủ yếu bằng nước trời, với năng suất từ 2 - 2,5 tạ/ha/năm. Bắt đầu từ năm 1980, khi chủ động nước tưới, người dân bắt đầu tăng gia sản xuất. Từ chỗ thiếu lương thực, đến năm 1985, lúa gạo đã ổn định, có tích trữ và bắt đầu xuất ra các địa phương khác.
Và đến nay, hồ Phú Ninh đang phục vụ tưới tiêu cho gần 50.000ha lúa và hoa màu thuộc các huyện Phú Ninh, Núi Thành, Thăng Bình, Quế Sơn, TP.Tam Kỳ và một phần diện tích của huyện Duy Xuyên; góp phần nâng sản lượng lương thực từ 21.000 tấn (1976) lên 543.960 tấn (năm 2024). Riêng cây lúa, năng suất bình quân toàn tỉnh ước đạt 58,41tạ/ha, gấp 23 lần so với năm 1976.
Đến nay, Phú Ninh vẫn là hồ thủy lợi lớn thứ 6 của cả nước, có dung tích ứng với mực nước dâng bình thường là 344 triệu mét khối, trong đó dung tích hữu ích khoảng 273,7 triệu mét khối nước.
Theo nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Lê Trí Tập: “Hồ Phú Ninh có 6 chức năng và ưu điểm gồm: tưới nước cho sản xuất, cung cấp nước sản xuất nông nghiệp; cung cấp nước cho sinh hoạt; nước cho công nghiệp; nuôi trồng thủy sản; cải tạo môi trường, chống hoang hóa; cuối cùng là giao thông đường thủy và du lịch”.
Một dòng nước, vạn dòng đời. Dòng nước Phú Ninh hôm nay vẫn lặng lẽ chảy cùng chuyển động của quê hương và trong ký ức của những thế hệ đã hết lòng vì đại công trình...