Có một người phụ nữ với giọng nói đặc sệt miền Trung, vẫn ngày ngày mang theo nỗi nhớ quê hương và dệt nên những điều kỳ diệu. Cô là Trần Thị Sỹ, một người con Quảng Nam, đã sống nơi đất khách hơn 20 năm, nhưng trong tim cô, quê nhà chưa bao giờ mờ nhạt.
Ngày đặt chân đến Đài Loan, cô như bao người, làm đủ thứ nghề để tồn tại, trong đó có làm quản lý ở một công ty suốt 15 năm. Nhưng khi dịch COVID-19 ập đến vào năm 2020, tất cả bỗng chốc khựng lại.
Yêu nhớ quê hương
Công ty bị buộc phải đóng cửa. Trong khoảnh khắc mà người khác có thể gục ngã, cô lại tìm thấy một lối đi mới. Cô mở một quán ăn Việt nhỏ, mộc mạc để mưu sinh; qua đó, gởi gắm tình yêu dành cho quê hương.
Những ngày đầu gian khó, dịch bệnh nên quán chỉ được bán mang về, không khách ngồi lại. Nhưng rồi, từng hộp cơm, từng tô phở vẫn được nấu bằng cả tâm hồn của người phụ nữ xa xứ ấy.
Và điều kỳ diệu đã đến - không chỉ cộng đồng người Việt mà cả người dân Đài Loan cũng đón nhận cô, yêu thương cô như người thân trong nhà. Hai năm sau, quán ăn nhỏ ấy thật sự thành công. Với cô, đó là thành quả không phải chỉ đến từ đôi tay, mà còn từ cả trái tim.
Cô kể, có những hôm phải chuẩn bị hàng trăm suất ăn, vượt qua hai, ba tuyến cao tốc để mang đến cho các nhà thương - nơi các bác sĩ, y tá ngày đêm chống chọi với đại dịch.
Dù mệt, dù đường xa, nhưng nghĩ đến việc làm có ích, lại có thể trích lợi nhuận để giúp đỡ những em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, là lòng cô lại ấm lên, đôi chân không còn mỏi.
Dẫu công việc kinh doanh thuận lợi, cô vẫn không thể thuê được bếp trưởng đúng chuẩn để duy trì lâu dài. Vậy là cô lặng lẽ nhượng lại quán ăn, nhẹ nhàng như cách một người mẹ tiễn đứa con đã trưởng thành ra đời. Nhưng cô không ngừng lại. Bởi trong cô, có một đam mê khác vẫn luôn cháy bỏng: giảng dạy tiếng Việt.
Dạy tiếng Việt ở các trường tiểu học và đại học cộng đồng, nhưng cô Sỹ không chỉ dừng lại ở những bài học ngữ pháp hay từ vựng đơn thuần.
Cô dạy bằng cả trái tim mình, với ánh mắt dịu dàng, giọng nói nặng của người miền Trung nước Việt nhưng ấm áp như hơi thở của quê hương vẫn còn vương vấn trong tim.
Theo cô, mỗi buổi học trông giống như một chuyến hành trình trở về quê hương, nơi có dòng sông lặng lẽ trôi bên lũy tre làng, nơi tiếng chim gọi nắng vọng từ những cánh đồng xa.
Không chỉ dạy tiếng
Cô Sỹ còn kể cho học trò nghe về những ngày tết rộn ràng, khi cả nhà quây quần gói bánh tét, tay lấm nếp, mà lòng thì tràn ngập niềm vui. Về những chiều đông se lạnh nơi xứ người, cô lại nhớ tô phở bốc khói nghi ngút giữa góc phố nhỏ Hà Nội, nơi vị ngọt của nước lèo như mang theo cả nỗi nhớ quê nhà.
Cô kể về tà áo dài thướt tha, e ấp trong ngày cưới là một biểu tượng của vẻ đẹp truyền thống, dịu dàng và thanh cao. Và rồi, ánh mắt cô chợt xa xăm khi nhắc đến những cánh đồng lúa chín vàng trải dài ngút mắt dưới cái nắng gắt của miền Trung, nơi cô đã lớn lên - nơi tuổi thơ gắn liền với tiếng ve, với mùi rơm rạ và những buổi trưa trốn ngủ ra đồng bắt cào cào.
Học trò của cô không chỉ học tiếng Việt, họ còn cảm nhận được cả một nền văn hóa đang sống động trước mắt mình. Với cô Sỹ, dạy tiếng Việt là cách để gìn giữ ký ức, là cây cầu nối nhịp giữa hai miền đất: một nơi cô đang sống, và một nơi cô mãi gọi là quê hương.
Các lớp học của cô thường rộn ràng tiếng cười, và người học - cả người lớn lẫn trẻ nhỏ - đến với cô không chỉ để học nói, mà để hiểu, yêu thêm Việt Nam.
Cô kể, nhiều học sinh đến lớp vì muốn hiểu về quê mẹ với ông bà ngoại đang sống ở Việt Nam. Có một số người Đài Loan, tối tối lại đến đại học cộng đồng để học, chỉ để có thể nói một lời chào, hỏi, hay đơn giản là hiểu được một nụ cười của người Việt.
Cô cho biết, mình từng dẫn học viên đến Phú Quốc, và sắp tới sẽ đưa một số học viên đi Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ để ngắm nhìn, cảm nhận quê hương của cô.
Lớp học của cô không hề khô khan. Bên cạnh những giờ học từ vựng, cô lồng ghép các trò chơi, những hoạt động nhỏ xinh mang đậm dấu ấn văn hóa Việt - từ gấp hoa sen bằng giấy, đến nếm thử nước mắm, đến nghe kể chuyện cổ tích. Nhờ vậy, lớp học luôn đông vui, và học viên lúc nào cũng háo hức, chẳng muốn vắng buổi nào.
Cuối mỗi học kỳ, cô cho biết, mình luôn chuẩn bị những món quà nho nhỏ: khăn tay thêu hình nón lá, sổ tay in hoa văn Đông Sơn… như một cách gói ghém tình yêu thương gửi đến học viên.
Tự hào nguồn cội
Cô Sỹ luôn tự hào mình là người gốc Quảng Nam - vùng đất nắng gió khắc nghiệt, nơi những con người sống chan hòa, chân thật và kiên cường. Trong trái tim cô, mảnh đất ấy không chỉ là nơi sinh ra, mà là gốc rễ nuôi dưỡng từng nhịp thở, từng nhịp tim của cô.
Cô cho biết, mỗi lần đi dạy, cô đều khoác lên mình tà áo dài. Dù trời có nắng gắt hay mưa phùn giăng mắc, cô vẫn bước vào lớp học trong chiếc áo dài thướt tha.
Không phải vì hình thức, mà bởi cô tin rằng, đó là một phần tâm hồn, cách thức cô gìn giữ bản sắc, để mỗi ngày soi gương, cô nhắc chính mình rằng: “Tôi là người Việt. Tôi đến từ Quảng Nam. Tôi mang theo cả một quê hương trong từng bước đi, từng câu chữ”. Tà áo ấy không chỉ là vải lụa, mà là tình yêu, là ký ức, là dòng chảy ngầm của văn hóa và truyền thống chảy mãi không dứt trong cô.
Tôi gặp cô lần đầu trong một quán ăn ở Đài Trung, miền Trung xứ Đài. Hôm ấy, cô mặc áo dài màu xanh - của hy vọng - thướt tha, nền nã, mái tóc búi cao gọn gàng, nụ cười dịu dàng như sương mai phủ trên đầu ngọn Trường Sơn.
Người phụ nữ ấy, trong giọng nói là cả một sức mạnh âm thầm. Cô không chỉ dạy tiếng Việt, cô mang theo cả hồn Việt. Từng câu chuyện cô kể, từng dòng chữ cô viết trên bảng, đều ẩn chứa hình ảnh quê hương, giữa đôi bờ ký ức.
Nhưng, có lẽ, điều khiến tôi không thể quên là ánh mắt cô. Ánh mắt có gì đó rực rỡ như lửa, ấm và kiên định, như thể trong đáy sâu tâm hồn, ngọn lửa yêu quê hương chưa bao giờ lụi tàn, dẫu năm tháng có vùi lấp hay xô đẩy cô xa khỏi nơi chôn nhau cắt rốn.
Những nỗ lực của cô giáo Trần Thị Sỹ được học trò của cô công nhận. Cô không ồn ào, không khoa trương, nhưng từng hành động, từng lời nói của cô đều thấm đẫm tình người và tình quê.
Trong công việc, cô không rực rỡ nhưng bền bỉ. Chính từ sự giản dị ấy, cô đã gieo vào lòng bao người Đài Loan và cả nhiều người Việt Nam xa xứ, một tình yêu với tiếng Việt và cội nguồn văn hóa của mình.