Hồ sơ - Tư liệu

Những câu chuyện về lòng dân nơi căn cứ

LÊ NĂNG ĐÔNG 27/03/2025 08:35

Chiến tranh đã lùi xa 50 năm, nhưng câu chuyện về lòng dân nơi căn cứ vẫn còn nguyên vẹn qua những ký ức của những người trong cuộc.

Ban Chấp hành Đảng bộ QN-ĐN tại Đại hội lần thứ I
Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng tại Đại hội lần thứ I tháng 1/1949 tại xã Tam An. Ảnh tư liệu

Thế trận lòng dân

Sau hội nghị Chùa Hang (tháng 10/1940), phong trào cách mạng bị địch đánh phá, cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam chuyển từ Tam Kỳ ra An Thạch (xã Bình Sa, Thăng Bình).

Sau khi cơ quan Tỉnh ủy đứng chân hoạt động tại An Thạch được một thời gian, phong trào cách mạng ở Thăng Bình phát triển rất nhanh. Vì vậy, các đồng chí trong Tỉnh ủy bàn tính kế lâu dài để phát triển phong trào cách mạng rộng khắp, từ đó, cơ quan Tỉnh ủy chuyển về đóng ở huyện Quế Sơn và theo như đồng chí Võ Toàn (Võ Chí Công) thì “lúc này chúng tôi đi đến nơi nào coi như Tỉnh ủy chuyển đến đó”.

Tại Quế Sơn, ban đầu Tỉnh ủy đứng chân tại nhà mẹ Sưu (Lê Thị Sưu) - còn gọi là bà Cửu Viện vì có con trai là đồng chí Trần Viện - đại biểu Quốc hội khóa I, II, III. Tại nhà mẹ Sưu còn là cơ quan ấn loát, in tài liệu, sách báo của Đảng phục vụ cho hoạt động cách mạng.

Các đồng chí Trương An, Lê Chưởng, Ngô Quang Tám, Võ Toàn, Nguyễn Sắc Kim, Trương Hoàn đều ở và làm việc tại ngôi nhà này, được gia đình bảo vệ chu đáo. Khi bị giặc bố ráp, truy lùng, các chiến sĩ, cán bộ phải tránh lên núi hoặc phân tán sang các địa điểm khác để hoạt động thì bà Sưu là người tổ chức tiếp tế thực phẩm, thuốc men và cung cấp tin tức tình hình.

Ông Phạm Đình Ba - nguyên Bí thư Đảng ủy xã Quế Hiệp là một trong những người tham gia xây dựng hồ sơ khoa học “An toàn khu Quế Hiệp” nên khá tường tận về cơ sở cách mạng này.

Ông nói: “Nhà bà Cửu Viện thuộc hàng phú nông trong vùng nhưng có tinh thần yêu nước. Căn nhà của bà đã trở thành cơ quan của Tỉnh ủy Quảng Nam và Xứ ủy Trung Kỳ. Trong thời gian đóng tại đây, các đồng chí Xứ ủy và Tỉnh ủy làm việc tại 3 phòng phía sau của căn nhà chính, các phòng này có cửa hậu để thoát lên núi khi bị động. Ba phòng trước thì gian giữa đặt bàn thờ, hai bên là hai phòng ngủ, tiếp khách, 3 phòng này có tường gạch và cửa gỗ khóa chắc chắn, cách ly với 3 phòng phía sau. Riêng xưởng in thì đặt bí mật phía sau lãm lúa ở nhà dưới. Nhà này ngoài kho lúa còn có bếp, bàn ăn, chỗ ngủ và nơi để công cụ và chất đốt (than, củi). Khi bị bố ráp, các cán bộ thường cải trang thành người lấy gỗ, chặt củi… rút lên Suối Tiên, Hóc Xôi và bà Lê Thị Sưu tổ chức cho việc tiếp tế lương thực, cung cấp thông tin”.

Chung sức phục vụ đại hội

Ngày 6/1/1949, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức đại hội lần thứ I tại làng Trung Định, xã Tam An (huyện Phú Ninh). Đại hội chủ trương: Đẩy mạnh các mặt hoạt động vào vùng địch chiếm, nhất là Đà Nẵng, Hội An. Phát động du kích chiến tranh, xây dựng cơ sở vũ trang, chính trị, địch vận và mở rộng công tác vận động quần chúng sẵn sàng phục vụ bộ đội đánh địch.

Huy động toàn dân tích cực chuẩn bị đề phòng những cuộc tiến công, nhảy dù hay đổ bộ của giặc vào vùng tự do. Tăng cường công tác bố phòng ven biển, dọc quốc lộ, thực hiện công tác cảnh giác, phòng gian bảo mật, cất giấu tài sản, sẵn sàng đối phó với địch trong mọi tình huống.

Mặc dù đã ngoài 95 tuổi, nhưng trong ký ức của ông Hồ Văn Lang - nguyên Chính trị viên Xã đội Tam An lúc bấy giờ vẫn còn nhớ rõ sự kiện nêu trên.

Ông Lang nhấn mạnh: “Đây là sự kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng, là niềm vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân Tam An. Để phục vụ đại hội, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân đóng góp lương thực, bảo đảm công tác phục vụ và bảo vệ an toàn cho đại hội. Đại hội đã diễn ra thành công tốt đẹp, đồng chí Nguyễn Xuân Hữu được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Sau thành công của đại hội, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh quyết định chọn xã Tam An để xây dựng xã kiểu mẫu của tỉnh”.

Trước đó từ cuối năm 1948, Tỉnh ủy quyết định chuyển cơ quan Tỉnh ủy từ các xã phía đông huyện Tiên Phước về đứng chân tại địa bàn xã Tam An.

Ông Hồ Văn Lang cho hay: “Khi cơ quan Tỉnh ủy di chuyển đến, các gia đình đều sẵn sàng nhường nhà cửa, chủ động thu xếp chỗ ăn ngủ cho cán bộ. Nhiều gia đình tích cực đóng góp lúa gạo, quyên góp thực phẩm để hỗ trợ, giúp đỡ cơ quan. Đề phòng kẻ địch đổ bộ, càn quét bất ngờ, bà con nhân dân luôn phân công nhau canh gác, cảnh giới, hết lòng giữ bí mật cơ quan, bảo vệ cán bộ, bảo vệ các cuộc hội họp của cơ quan Tỉnh ủy. Từ đó, mối quan hệ giữa cán bộ với nhân dân, tình cảm quân dân ngày càng gắn bó bền chặt”.

Bên dòng A Vương

Tháng 1/1960 tại thôn Adhur, bên dòng sông A Vương, huyện Bến Hiên (nay thuộc xã A Rooi, Đông Giang), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ IV. Đây là đại hội đầu tiên của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tác giả (đứng thứ hai phải qua) tại Di tích lịch sử cấp tỉnh Bờ sông A Vương- nơi diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng lần thứ IV năm 1960
Tác giả (đứng thứ hai phải qua) tại Di tích lịch sử cấp tỉnh bờ sông A Vương - nơi diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ IV tháng 1/1960.

Già làng Hôih Zơơn - nguyên du kích xã Arooi, huyện Đông Giang, là người trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài của đại hội nhớ lại: “Những ngày diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh, Adhur sôi động hẳn lên. Đây là lần đầu tiên sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ, Bến Hiên được tiếp đón cùng một lúc nhiều đồng chí lãnh đạo đại diện Liên Khu ủy, Tỉnh ủy, các cán bộ chủ chốt của các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh”.

Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho đại hội và đại biểu về tham dự, công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương và rất chu đáo. Khu vực đại hội có 8 ngôi nhà được làm dưới tán cây và ngụy trang cẩn thận nhằm tránh máy bay địch phát hiện.

“Vòng ngoài khu vực đại hội được cảnh giới và bảo vệ nghiêm ngặt, do 8 du kích xã phụ trách, được trang bị 1 cây súng trường và 2 cây súng carbin. Công tác sản xuất được đẩy mạnh nhằm đảm bảo lương thực cho các đại biểu về tham dự đại hội” - già làng Hôih Zơơn nhớ lại.

Đại hội tiến hành trong 15 ngày, nội dung chủ yếu là nghiên cứu Nghị quyết 15, kiểm điểm, đánh giá các mặt công tác của Đảng bộ tỉnh từ sau khi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đề ra phương hướng nhiệm vụ theo chủ trương mới của Đảng và học lịch sử Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội đã chủ trương: phải tạo mọi điều kiện để công hạ uy thế địch, khôi phục, phát huy uy thế quần chúng, mở rộng và phát triển lực lượng cách mạng ở đồng bằng; ra sức xây dựng miền núi vững mạnh về mọi mặt làm căn cứ địa cho phong trào cách mạng trong tỉnh. Nhiệm vụ ở đồng bằng vừa tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, vừa móc nối xây dựng lại cơ sở đảng, rút thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang. Phương châm hoạt động là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 19 đồng chí, đồng chí Trương Chí Cương được Liên Khu ủy 5 chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội có ý nghĩa trọng đại đối với sự phát triển của phong trào cách mạng trong tỉnh, đánh dấu bước phát triển mới về phương thức hoạt động: kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và nổi dậy giành quyền làm chủ của quần chúng nhân dân. Thành công của đại hội đã củng cố niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của đồng bào trong tỉnh.

Sau đại hội, Tỉnh ủy thành lập các Ban Quân sự, Kinh tế, Tuyên huấn, Binh vận. Ban Cán sự cánh Bắc, cánh Trung và miền Tây được giải thể, Tỉnh ủy trực tiếp lãnh đạo các huyện. Ban Chấp hành Đảng bộ các huyện Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn, Hòa Vang được thành lập lại. Từ đó, lực lượng cách mạng trong tỉnh phát triển lên một bước mới. Trên địa bàn toàn tỉnh đã dấy lên nhiều hoạt động đấu tranh chính trị và quân sự có ý nghĩa chính trị sâu sắc, đánh dấu bước phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết 15.

(0) Bình luận
x
Nổi bật Báo Quảng Nam
Mới nhất
Những câu chuyện về lòng dân nơi căn cứ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO