Chỉ như một dấu chấm nhỏ trên dặm dài đường Hồ Chí Minh, làng Rô (nay là thôn Pà Dá, xã Cà Dy, Nam Giang) nép mình bên dòng sông Đắk Mi. Chừng như, thứ tài sản quý giá nhất mà người làng Rô còn giữ là tên làng cùng niềm tự hào khi từng được nhắc đến trong những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Ơi làng Rô nhỏ của tôi/Cao cao ngọn núi chiếc nôi đại bàng”...
Thăm lại làng Rô
Nắng hắt lên từ mặt đường nhựa, bỏng rát. Dưới gốc cây lớn ở một quán nhỏ ven đường, ông Doãn Phú - vị già làng uy tín của làng Rô đã chờ sẵn, sau lời hẹn. Tuổi đã cao, ánh mắt không còn tinh anh, nhưng khi nhắc nhớ ký ức ngôi làng, ông Doãn Phú lại hồ hởi lạ thường, như đã rất lâu rồi mới chạm vào miền nhớ...
Giọng ông Phú chậm rãi, như kéo lại hồi ức về ngôi làng nhỏ nép bên dòng sông Đắk Mi. “Làng nguyên thủy ở đồng Prung, sau giải phóng mới dời về địa điểm bây giờ. Tôi hồi đó làm du kích, sau tham gia thanh niên xung phong làm đường.
Năm 1974, vẫn còn đầy bom đạn. Bom thả xuống dòng Đắk Mi, cá chết nổi trắng sông. Cả làng chỉ tầm hai chục nóc nhà, làm rẫy làm nương, tự cung tự cấp.
Cuộc sống làng Rô cũng như bao làng khác ở vùng cao hồi đó, khốn khó lắm, được cái gì cũng chia nhau. Trong cực khổ, bà con biết đùm bọc nhau từ con thú cho tới từng củ sắn, tình cảm lắm” - ông Phú kể.
Những năm tháng khốn khó ấy, làng Rô nghèo đến tận cùng. Cơm không đủ no, áo không đủ ấm, bữa ăn chỉ có sắn rừng độn chút cơm lúa rẫy. Nhưng họ vẫn sống chết một niềm tin với Đảng.
Ông Phú nói, chuyện dân làng Rô chở che, nuôi giấu cho ông Tố Hữu và ông Huỳnh Ngọc Huệ là minh chứng lớn nhất cho niềm tin son sắt của dân làng Rô. Hai chiến sĩ cách mạng vượt ngục Đắk Glei (Kon Tum) về, được cả làng mang sắn, mang lúa, bắp đến nhà già làng nuôi giấu. Từ những ngày tháng ấy, câu thơ Tố Hữu viết về làng Rô được cả làng nhắc nhớ: “Ơi làng Rô nhỏ của tôi/ Cao cao ngọn núi chiếc nôi đại bàng/ Trăm năm ta nhớ ơn làng/ Cánh tay che chở bước đường gian nguy”.
Rồi ông Phú kể về cặp ngà voi - kỷ vật thiêng liêng của làng. Làng nghèo, chẳng có gì quý, nhưng ngày nhà thơ Tố Hữu trở lại làng, già làng đã mang tặng ông một cặp ngà voi. Cặp ngà ấy được già làng cất giữ từ lâu, như một món quà chờ ngày hội ngộ. Không chỉ là món quà, cặp ngà voi tặng ông Tố Hữu đã trở thành biểu tượng của lòng trung thành người dân làng Rô với Đảng, với cách mạng.
Sau này, khi đất nước thống nhất, ông Tố Hữu nhiều lần trở lại làng Rô. Những bức ảnh lưu niệm được ông Tố Hữu gửi tặng, bà con mang đóng khung, giờ vẫn còn cất giữ ở nhà sinh hoạt cộng đồng.
Già Doãn Phú cất tiếng gọi, hai thanh niên vội quay xe máy đi. Không lâu sau, họ mang những bức ảnh ấy đến cho vị già làng. Ông Doãn Phú cầm lấy bức ảnh, mắt rưng rưng. Hình như, trong thẳm sâu của già làng, vẫn còn một không gian mênh mông của hoài niệm về Tố Hữu, về những ân tình người làng Rô với nhà thơ...
Trăn trở bên dòng Đắk Mi
Không có lấy một “chỉ dẫn” nào để nhận diện làng Rô bây giờ, ngoài dấu ngoặc ghi chữ “Thôn Rô” trên tấm biển hiệu của tiệm tạp hóa giữa làng. Chị Mười, chủ tiệm tạp hóa nói, làng Rô là tên ngày trước, giờ đã nhập thôn, tên gọi mới là Pà Dá.
“Nhưng dân trong vùng vẫn quen gọi là làng Rô. Tôi cũng quen gọi là Rô, tên Pà Dá chỉ mới đây. Người già họ không gọi tên đó” - chị Mười nói.
Vẫn là cái nắng bỏng rát hắt lên từ đá núi. Trưởng thôn Pà Dá, anh Đinh Văn Xô cho hay, người làng vẫn đối mặt với bao khó khăn. “Làng Rô giờ đã xóa tên, nhập thành thôn Pà Dá, nhưng đời sống bà con vẫn cơ cực lắm. Năm 2024, cả thôn có 270 hộ với hơn 1.000 khẩu, mà có 105 hộ nghèo, 59 hộ cận nghèo. Đất sản xuất ít, chỉ đạt 96ha so với kế hoạch 173ha, sản lượng lương thực chỉ được 70 tấn, chưa bằng nửa chỉ tiêu 138 tấn. Chăn nuôi thì khá hơn, với 840 con gia súc, 5.570 con gia cầm, nhưng thi thoảng dịch bệnh cũng xuất hiện, gây nhiều thiệt hại” - anh Đinh Văn Xô chia sẻ.
Dù đã có một số chương trình hỗ trợ giống cây, vật nuôi, làm đường sá, xây dựng nông thôn mới, nhưng cái nghèo vẫn bám lấy thôn Pà Dá.
“Chúng tôi vận động bà con thoát nghèo, làm nhà vệ sinh - giờ hơn 150 hộ có nhà vệ sinh đạt chuẩn, giữ vệ sinh môi trường, nhưng vẫn còn nhiều hộ không chịu phấn đấu, bỏ đất trống không lao động, chăn thả gia súc bừa bãi. Tranh chấp đất đai, tảo hôn vẫn xảy ra. Tôi trăn trở lắm.
Năm 2025, chúng tôi đặt mục tiêu tăng diện tích trồng trọt lên 203ha, giảm 15 hộ nghèo, nhưng tôi biết điều đó chưa đủ. Cần phải có nhiều giải pháp bền vững hơn để người dân thay đổi nhận thức, phấn đấu làm giàu, hưởng thành quả của phát triển, để vùng đất này ngày càng trù phú, tươi đẹp hơn” - Trưởng thôn Đinh Văn Xô tâm sự.
“Chiếc nôi đại bàng” nhỏ bé và mờ nhạt trên bản đồ. Thật khó, khi làng Rô chỉ còn là một cụm dân cư quá khiêm tốn bên đường Hồ Chí Minh, xa trung tâm Thạnh Mỹ và thiếu vắng quá nhiều điều kiện để có thể có thêm lựa chọn sinh kế cho cư dân.
Nông sản vẫn đa phần là sắn, bắp, giá trị kinh tế không cao và chưa thể trở thành một loại hàng hóa cho thu nhập ổn định. Du lịch, hình như chỉ tồn tại đâu đó trong những kỳ vọng, dự định của địa phương.
Thôn Rô chưa có hạ tầng lưu trú, thiếu vắng những câu chuyện để tạo ra điểm đến. Ngôi làng chỉ được biết đến như một phần của lịch sử, gắn với câu chuyện nuôi giấu nhà thơ Tố Hữu và chiến sĩ cách mạng Huỳnh Ngọc Huệ.
Dẫu vậy, từ ký ức của ông Doãn Phú đến trăn trở của Trưởng thôn Đinh Văn Xô hôm nay, có một điều không bao giờ đổi thay: sự thủy chung, son sắt của người dân làng Rô với Đảng, với Bác Hồ. Hơn 80 năm kể từ ngày nhà thơ Tố Hữu được dân làng nuôi giấu, họ vẫn sống bằng niềm tin ban sơ giữa muôn vàn khó khăn.
Những tấm ảnh kỷ vật chụp cùng Tố Hữu, câu chuyện về cặp ngà voi kỷ vật vẫn được kể, như ngọn lửa không bao giờ tắt trong lòng người làng Rô. Ông Phú nói, đã có rất nhiều thay đổi, nhưng sống chết, người làng vẫn một lòng tin tưởng cách mạng, tin Đảng, tin Bác Hồ. Làng Rô vẫn là “chiếc nôi đại bàng” giữa đại ngàn, như một lời thề của bao thế hệ, từ rất lâu rồi...
Một vài chuyến xe lướt vội, trả lại không gian yên tĩnh cho những ngôi nhà nhỏ bám lấy sườn dốc dọc làng Rô. Dòng Đăk Mi trôi chậm, ngang qua những biền bãi lơ thơ. Những đứa trẻ làng Rô vừa tan học, ùa ra từ cổng trường, trong veo những đôi mắt đen láy và nét cười hồn hậu.
Chúng sẽ là thế hệ tiếp nối niềm tự hào từ ký ức của người làng Rô, được gieo giữ kỳ vọng về một tương lai trù phú hơn cho miền đất còn nhiều gian khó. Từ “chiếc nôi” ấy, hy vọng sẽ có thêm những cánh đại bàng...
Năm mươi năm giải phóng, mỗi ngôi làng, mỗi vùng đất cất giữ cho riêng nó những ký ức không thể quên. Thời gian làm phai mờ nhiều thứ, nhưng lịch sử sẽ là một phần không thể tách rời của mỗi vùng đất, để xứ Quảng có được ngày hôm nay.
Chuyến đi vội trước thềm xứ Quảng kỷ niệm tròn 50 năm ngày giải phóng, như một phần hồi ức xúc động sống dậy để gọi tên quá khứ, để tri ân những đóng góp của bao thế hệ, bao miền đất, là tiền để có thể nghĩ tới kỳ vọng rạng rỡ hơn, ở ngày mai...