Theo sự chỉ đạo của Quân khu 5, Quảng Đà thành lập Ban chỉ huy tiền phương gồm các đồng chí: Phan Hoan - Chỉ huy trưởng, Trần Thận - Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy, Lê Công Thạnh làm Phó Chính ủy; chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang địa phương, hiệp đồng với các cánh quân của bộ đội chủ lực giải phóng Quảng Đà - Đà Nẵng.
Siết chặt gọng kìm
Ngày 26/3/1975, Sư đoàn 2, các Trung đoàn Pháo binh 572, Cao xạ 573, Tăng thiết giáp 574 chuyển đội hình ra Thăng Bình, Quế Sơn sẵn sàng tiến về Đà Nẵng.
Riêng Quảng Nam, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ bổ sung; sử dụng các tiểu đoàn của tỉnh đang truy quét tàn quân địch ở vùng đông Tam Kỳ men theo sông Trường Giang cấp tốc hành quân ra Mộc Bài, Phú Phong chặn đường rút chạy của địch về Đà Nẵng.
Đúng 5 giờ 30 phút ngày 28/3/1975, pháo chiến dịch bắt đầu khống chế Đà Nẵng, sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy và bán đảo Sơn Trà. Pháo binh Sư đoàn 2 và hỏa lực của tỉnh đánh mạnh vào Hòn Bằng, Trà Kiệu, Nam Phước, Câu Lâu.
Đến 9 giờ cùng ngày, Trung đoàn 38 đánh tan cụm quân địch án ngữ phía bắc cầu Bà Rén; Trung đoàn 96 của tỉnh đánh chiếm quận lỵ Duy Xuyên và thị trấn Nam Phước. Đến 12 giờ ngày 28/3/1975, huyện Duy Xuyên hoàn toàn sạch bóng quân thù.
Để chặn đường truy kích của ta, chiều 28/3/1975, địch cho máy bay ném bom phá sập cầu Bà Rén và cầu Câu Lâu. Cầu bị phá, xe tăng và pháo binh của ta bị nghẽn lại ở phía nam cầu Câu Lâu. Nhưng do làm tốt công tác chuẩn bị từ trước nên hàng trăm chiếc thuyền lớn nhỏ của nhân dân hai bên bờ sông ra đón bộ đội sang sông.
Tại Đại Lộc, Lữ đoàn lính thủy đánh bộ và Sư đoàn 3 ngụy cùng quân địa phương vẫn tập trung đối đầu với Sư đoàn 304, nhưng tâm lý bại trận trong hàng ngũ địch phát triển nhanh trước những đòn tiến công như vũ bão của ta.
Ở Điện Bàn, ngày 28/3/1975, quân địch ở ngã ba Trùm Giao, hai đầu cầu Cẩm Lý, đồn Trường Giảng và cứ điểm Bồ Bồ tháo chạy. Lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng ở các nơi gọi hàng được 2.000 tên. Đêm 28/3/1975, Trung đoàn 38 vượt sông Thu Bồn đánh chiếm thị trấn Vĩnh Điện. Trung đoàn 97 từ vùng B Điện Bàn vượt đường số 1 xuống Điện Ngọc - Hòa Hải (Hòa Vang).
Sở chỉ huy tiền phương của Quảng Đà từ núi Hòn Tàu di chuyển về Điện Hòa để chỉ huy, chỉ đạo trận tấn công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng.
Quê hương hoàn toàn giải phóng
Hội An là tỉnh lỵ, hang ổ của ngụy quyền tỉnh Quảng Nam, chúng xây dựng một hệ thống gồm 57 đồn bót lớn nhỏ, 12 khu dồn dân. Gần thị xã còn có chi khu quận lỵ Hiếu Nhơn, quân địch tuy còn đông nhưng bọn chúng rất hoang mang dao động; một số tên đã bỏ nhiệm sở chạy ra đảo Cù Lao Chàm hòng tìm đường thoát thân.
Khoảng 2 giờ ngày 28/3/1975, các lực lượng vũ trang thị xã được nhân dân Xuyên Thái, Xuyên Tân, Cẩm Thanh, Cẩm Kim dùng thuyền đưa sang sông, chia làm hai hướng tiến vào nội ô.
Một mũi đánh chiếm khu Chi Lăng, khu lao xá, miếu Ông Cọp và sân bay, giải thoát cho 500 người bị địch giam giữ ở nhà lao. Một hướng tiến về phía đông đánh chiếm khu vực Tây Hồ, ty cảnh sát và một số mục tiêu khác.
Sau khi chiếm lĩnh các vị trí của địch, 5 giờ sáng 28/3/1975, các đơn vị tiến quân về tòa hành chính Quảng Nam. Cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng phấp phới tung bay trên dinh lũy kẻ thù. Toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền ở Hội An bị tan rã.
Cũng trong ngày 28/3/1975, quân chủ lực địch ở Đại Lộc được lệnh của Ngô Quang Trưởng rút về co cụm “tử thủ” Đà Nẵng. Chớp thời cơ, Huyện ủy Đại Lộc lãnh đạo quần chúng nổi dậy làm chủ khu đông cầu Chìm, sát chân Núi Lở.
Khi quân địch ở An Hòa - Đức Dục tháo chạy qua Giao Thủy, bộ đội địa phương huyện cùng du kích các xã Lộc Phước, Lộc Hưng, Lộc Phong chặn đánh bắn cháy 6 xe GMC, phá hủy 5 pháo 155 ly và 105 ly.
Lúc này Sư đoàn 304 đã nhận lệnh tấn công truy kích địch theo trục đường 14, xuống áp sát Đà Nẵng. Đến 16 giờ ngày 28/3/1975, bộ đội chủ lực và bộ đội huyện chiếm lĩnh quận lỵ Đại Lộc. Quận lỵ thất thủ, quân địch ở đồn Cao, vị trí cuối cùng của ngụy quân trên địa bàn Đại Lộc tháo chạy.
Ngay trong đêm 28/3/1975, Tỉnh ủy Quảng Đà nhận được tin báo khẩn cấp: Ngô Quang Trưởng đã bỏ nhiệm sở tháo chạy. Đà Nẵng hỗn loạn, ngụy quyền bất lực không giữ được trật tự, không điều khiển được tình hình.
Ngày 29/3/1975, các Trung đoàn 96, 97 của tỉnh Quảng Đà kết hợp với Sư đoàn 2, Sư đoàn 304, Sư đoàn 325 từ các hướng đồng loạt tấn công Đà Nẵng, hang ổ cuối cùng của Quân đoàn 1 - Quân khu 1 ngụy.
Đúng 11 giờ 30 phút, ta làm chủ, cắm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam lên nóc tòa thị chính. Đến 12 giờ, quân ta đánh chiếm sân bay Đà nẵng - Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy và sau đó 3 tiếng đồng hồ, ta làm chủ bán đảo Sơn Trà. Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng.
Đất nước trọn niềm vui
Ngày 30/4/1975, quân và dân Quảng Nam, Quảng Đà vui mừng đón nhận tin chiến thắng. Các quân đoàn chủ lực dũng mãnh của ta đã đập tan sự kháng cự cuối cùng của địch, giải phóng Sài Gòn, cắm cờ Quyết chiến - Quyết thắng lên dinh Độc lập. Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta toàn thắng.
Bằng những nỗ lực không biết mệt mỏi, trong hơn 2 năm sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực, quân và dân xứ Quảng đã trụ bám chiến đấu kiên cường, lần lượt đánh bại các kế hoạch lấn chiếm bình định của địch; phối kết hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực mở các chiến dịch tiến công tiêu diệt và làm tan rã quân địch, giải phóng một số địa bàn quan trọng, tạo thế và lực mới trên chiến trường tỉnh; tranh thủ củng cố hậu phương, chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ cho nhiệm vụ trọng đại của dân tộc.
Và với những cố gắng cao nhất, kết hợp cùng sự chỉ đạo, chỉ huy tài tình của cấp trên, sự hỗ trợ đắc lực của bộ đội chủ lực, quân và dân đất Quảng đã đẩy mạnh tiến công đập tan bộ máy kèm kẹp của địch, giải phóng quê hương, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của đất nước.