Làng tôi ở ven sông Đình, phía tây tiếp giáp với xã Tam Mỹ, huyện Núi Thành. Trước năm 1975, nơi đây có nhiều đồn địch chiếm đóng.
Ở làng tôi, chiều 23/3/1975, Tiểu đoàn Trinh sát 6 thuộc Trung đoàn 6 Bộ binh, Sư đoàn 2 ngụy rút quân từ đồn Bản Lầu xã Kỳ Sanh (Tam Mỹ Tây) về căn cứ Chu Lai để tìm đường chạy trốn.
Đến 21 giờ kho đạn ở Căn cứ Chu Lai bốc nổ, những tên lính ngụy cuối cùng đã cố phá hủy kho đạn trước khi bỏ chạy vào Nam. Tiếng nổ chát chúa xé toạc màn đêm ở những vùng lân cận gần căn cứ, kéo dài đến gần sáng hôm sau.
Gần trưa ngày 24/3/1975, những đoàn quân Giải phóng từ các hướng đổ về, mang theo tin vui quê hương Quảng Nam đã được hoàn toàn giải phóng. Các chú bộ đội đi từng hàng dài, trên vai mang ba lô đầy lá ngụy trang.
Lần đầu tiên người làng tôi nhìn thấy lá cờ Tổ quốc đi trước hàng quân lẫn lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam. Cảm giác tự do tràn lên từng mặt người. Thương nhất là các chú nuôi quân, vai cõng cả một chiếc rọ to chứa đựng nhiều loại lương thực thực phẩm, cái chảo quân dụng bằng gang to được khiêng đi cuối đoàn quân.
Chiều hôm ấy, các cánh quân hạ trại ở làng. Trên cái sân gạch nhà bà Bằng, cụ Yến, Năm Hy các chú dừng chân nghỉ ngơi sau gần một ngày hành quân về đây.
Chúng tôi tò mò và hiếu động lân la, dòm ngó. Với chúng tôi cái gì cũng lạ, cũng mới từ các chú bộ đội. Từ chiếc mũ tai bèo, nón cối, đôi dép cao su, đến bánh xà phòng 72 của Liên Xô. Ấn tượng nhất là chiếc mũ cối được bọc lưới, vừa lạ lẫm vừa oai phong của người lính cụ Hồ.
Chiều hôm đó, sau bữa cơm mỗi chú nhận thêm một nắm cơm vắt rồi gấp rút lên đường hành quân tiến vào Nam. Trước khi rời làng các chú không quên tặng lũ trẻ chúng tôi mỗi đứa một thanh lương khô 502 vừa bùi vừa thơm mùi đậu. Các mẹ, các chị ra đường bịn rịn tiễn các anh tiếp tục hành quân vào Nam.
Ngày 25/3/1975, Ủy ban Quân quản xã Kỳ Liên (Tam Nghĩa) được thành lập. Những câu khẩu hiệu được viết vội lên những bức tường nhà ngày đó càng cho chúng tôi hiểu, còn đó những việc mà người dân cần phải nỗ lực trong những ngày tháng này như: “Hỗ trợ tối đa cho tiền tuyến; ổn định tối đa hậu phương; tích cực tăng gia sản xuất”.
Sau đó vài ngày Tiểu đoàn pháo cao xạ lại về làng đóng quân, không vội vã như đoàn quân trước, tiểu đoàn dừng chân ở làng tôi khá lâu. Mãi đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam các chú mới rời đi.
Ngày tháng đó, làng không còn nghe tiếng súng, pháo chiều chiều từ căn cứ Chu Lai bắn lên lẫn tiếng gầm rú của những chiếc máy bay F5 quần thảo trên bầu trời. Thay vào đó là tiếng hát của bọn trẻ chúng tôi trong những đêm trăng tập văn nghệ cùng với các chú bộ đội, với hội thanh niên.
Những âm vang của bài ca Kết đoàn, Bão nổi lên rồi, Tiếng đàn ta lư, Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây... vẫn còn vang vọng đến bây giờ. Rồi chúng tôi hớn hở cắp sách đến trường. Chúng tôi trưởng thành trong cảnh đất nước thanh bình.