(VHQN) - Mùa xuân 1982, sau khi ăn tết cùng cha mẹ và xóm giềng gần như là lần cuối, bố tôi lận lưng 2 chỉ vàng, trên lưng mang một chiếc phong cầm, dắt vợ trẻ và hai con thơ rời Nghệ An vào Đồng Nai lập nghiệp.
Một người đàn ông 22 tuổi không biết điều gì đang chờ mình phía trước, nhưng vẫn cứ đi.
Tìm miền đất hứa
Ông bỏ lại nhà cửa, vườn tược và cả chiếc thuyền đánh cá nhiều năm tại vùng Quỳnh Thanh - Quỳnh Lưu (Nghệ An), lên đường Nam tiến. Lý do chỉ đơn giản: đi đến nơi trù phú để con cái được học hành tốt hơn.
Nói là làm. Ăn tết xong, ông dắt vợ và hai con thơ lên đường trong cảnh mẹ già nước mắt lưng tròng. Không chỉ đi một mình, bố còn “vận động” một số người bạn cùng chí hướng, dắt díu gia đình lên tàu Thống Nhất vào Nam.
Để có được sức mạnh và sự liều lĩnh đó, người đàn ông cần chút lãng mạn để đạp bằng mọi khó khăn. Bố tôi yêu âm nhạc một cách tuyệt đối. Bỏ lại tất cả nhưng ông vẫn mang theo cây phong cầm (accordion). Cứ thế, ông lên đường trong hào sảng.
Vào vùng Định Quán - Đồng Nai, ông và một số gia đình chọn vùng đất ở bìa rừng, phát hoang lập ấp. Thời gian đầu rất khó khăn, nhiều người bị sốt rét nặng, cơ sở vật chất vô cùng thiếu thốn. Nhưng bố tôi vẫn mang accordion trước bụng, chơi những bản nhạc tưng bừng vào cuối tuần, tập hợp những người anh em để lập ban nhạc gia đình. Cứ vượt khó theo cách thật đẹp như vậy, cuộc ra đi của bố được xem là thành công và lấp lánh cái đẹp của lạc quan, yêu đời.
Ở mảnh đất vùng chữ S này, những người đàn ông dũng cảm và mộng mơ dám đứng lên, di chuyển để tìm đến vùng đất hứa rất nhiều.
Ba vợ tôi cũng vậy. Năm 1977, xuất ngũ tại Phù Cát (Bình Định), ba gặp mẹ ở Thăng Bình. Cưới xong, ông bà quyết định “đi thật xa để tìm tương lai”. Đôi bồ câu này đậu lại ở mảnh đất trù phú Krông Păk (Đăk Lăk), và bắt đầu viết lên câu chuyện thật đẹp của những người tay trắng lập nghiệp nơi xứ người.
Ông bà hay lam hay làm, biến vùng đất đỏ hoang sơ bạt ngàn thành rẫy cà phê tăm tắp, biến những ngọn đồi trọc thành rẫy sầu riêng bạc tỷ, giúp con cái học hành đến nơi đến chốn. Có thể nói, đó là cuộc ra đi đúng đắn và thành công.
Nhưng quê hương “mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi” (Quê hương - Đỗ Trung Quân). Dù gia đình có Nam tiến thành công đến mấy, người cha, người mẹ vẫn không thôi đau đáu nhớ về quê nhà.
Trở về trong nghẹn ngào
Tôi nghĩ, không có chuyến đi nào đẹp bằng chuyến về thăm cố hương. Vừa rồi, tôi âm thầm đặt vé và “bế” mẹ về Nghệ An một chuyến. Đó là chuyến đi giàu cảm xúc một cách đặc biệt.
Tôi chọn gia đình bác ruột, chuẩn bị hai mâm cơm, rồi mời tất cả bà con họ hàng đến dùng bữa. Sau gần 40 năm xa cách, mẹ gặp ai cũng ôm chầm, nói được vài câu rồi khóc vì xúc động. Ngồi rôm rả một hồi, cả một trời kỷ niệm ùa về. Mọi người tranh nhau kể lại những câu chuyện xưa. Lúc dậy tờ mờ sáng khi trời rét để lên thuyền đi đánh cá, khi đi cắt cỏ cho bò suýt bị lũ cuốn. Rồi những câu chuyện tương trợ, giúp đỡ, sẻ chia, phụ nhau làm nhà, giúp nhau chữa bệnh.
Sau tết, vợ bảo tôi rằng mẹ đã già yếu, sợ vài năm nữa không đi chơi xa được. Bây giờ muốn đưa mẹ đi chơi thì đến đâu là hợp lý? Tôi bảo, đưa bà về thăm quê của bà và thăm quê của ông, dù ông đã mất.
Vậy là tôi lái xe chở cả nhà đi một chuyến dài cả tuần, đến Thăng Bình (Quảng Nam) và sau đó là Phù Cát (Bình Định).
Đúng như dự đoán, bà đã rất vui và lấp lánh ánh mắt suốt cả chuyến đi. Khi xe lăn bánh chậm vào làng Trà Đóa (Thăng Bình), bà hào hứng kể lại 50 năm trước, con đường này là kênh, rồi sau đó vùng kia là ấp chiến lược. Bà kể vanh vách những người bà con tên gì, ai còn, ai đã mất. Sau đó, bà tha thiết muốn đến nhà một số người bà con mà nửa thế kỷ trước đã rất tốt với mình, không biết bây giờ họ ra sao.
Đêm cuối cùng trước khi rời cố hương, bà khẩn khoản xin không ngủ ở khách sạn mà vào nhà một người họ hàng ở ven biển để ngủ. Sáng hôm sau, bà kể rất thương: “Tau nhớ cảnh vừa ngủ vừa nghe tiếng biển và gió xô hàng dương. Bao nhiêu năm, ngủ ở nhà đó vẫn còn nghe”.
Rời Quảng Nam, đến Bình Định, chúng tôi như những diễn viên phụ trong một bộ phim tình cảm đầy xúc động. Mẹ vợ tôi là con dâu, chồng qua đời nên sau hơn 20 năm mới có dịp trở về quê chồng. Anh em, họ hàng biết tin, kéo đến rất đông. Những cái ôm thật chặt. Những câu nói mới thốt ra nửa chừng đã bật khóc vì xúc động.
Chuyến đi đưa mẹ và mẹ vợ về cố hương khiến tôi nhận ra, tình quê, bao năm vẫn còn đó. Không ồn ào, lắm lúc tưởng đã bị lãng quên nhưng kỳ thực vẫn ở đó. Nó như một mạch nước ngầm âm ỉ, chỉ chờ dịp để tuôn trào.
Trên đường về, xe xuôi dọc theo “khúc ruột miền Trung”, có những đoạn cát trắng xóa, làng mạc xác xơ. Tôi tự hỏi, cuộc đời có những chuyến ra đi rất đẹp. Nhưng nếu tất cả người miền Trung đều bỏ quê hương, đến nơi trù phú thì ai giữ nơi này? Như vậy, ra đi cũng đẹp mà ở lại cũng có cái đẹp của nó.
Cuộc đời mỗi người đều có những ngả rẽ. Những ngả rẽ đẹp thường do một người đàn ông có dũng khí dẫn lối. Như trong tác phẩm kinh điển thế giới “Trăm năm cô đơn” (Marquez), người đàn ông mang tên Buendya đã dẫn vợ và vài chục gia đình bỏ làng ra đi. Họ tin rằng đi mãi sẽ đến biển và sẽ sinh sống ở đó. Cuối cùng, chẳng đến biển, họ lập làng cạnh hồ nước lớn và sống một “cuộc đời mới”. Nhưng nỗi bất hạnh của họ là dù rất nhớ quê hương, họ mãi mãi không thể trở về thăm.
Như vậy, thật may mắn khi trong cuộc đời của mình, ai đó vừa có những chuyến ra đi rất đẹp mà lại có cả những chuyến trở về đẹp hơn.