- Thời gian: từ ngày 11-13/10/2020.
- Địa điểm: Hội trường UBND tỉnh Quảng Nam.
- Thành phần tham dự: Có 347 đại biểu đại diện cho hơn 69.111 đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Đồng chí Trương Thị Mai - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương dự và phát biểu chỉ đạo đại hội.
- Chủ đề đại hội: “Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, bản sắc văn hóa và truyền thống cách mạng; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, phấn đấu xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030”.
* Nội dung:
- Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ XXI, trong đó nhấn mạnh: “Năm năm qua, nắm bắt thời cơ, thuận lợi; vượt qua thách thức, khó khăn, nhất là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19; với tinh thần đổi mới, phát huy dân chủ, truyền thống cách mạng, cùng với sự đoàn kết, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Quảng Nam đã nỗ lực phấn đấu triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, tạo tiền đề để Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững trong những năm tiếp theo.
Thực hiện các nhiệm vụ đột phá gắn với cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng có nhiều chuyển biến tích cực. Vùng động lực đồng bằng, ven biển và vùng trung du, miền núi được tập trung phát triển và đẩy mạnh đầu tư. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững được triển khai quyết liệt và tập trung nhiều nguồn lực để thực hiện. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm. Đổi mới giáo dục - đào tạo, phát triển khoa học - công nghệ, chú trọng lĩnh vực y tế và chính sách đối với người có công. Xây dựng, phát triển văn hóa, con người được quan tâm xuyên suốt và có nhiều chuyển biến tích cực. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; các hoạt động đối ngoại được mở rộng. Công tác nội chính; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải cách tư pháp được thực hiện nghiêm túc.
Dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được phát huy; nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, thiết thực. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp được tăng cường; cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh. Công tác xây dựng Đảng được quan tâm thường xuyên”.
- Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát giai đoạn 2020-2025 và tầm nhìn đến năm 2030: “Xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh, hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, bản sắc văn hóa và truyền thống cách mạng; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động xã hội; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, bền vững; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân, bảo vệ tốt môi trường sinh thái; tăng cường quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030”.
- Đại hội đề ra các nhóm chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030:
(1) Nhóm các chỉ tiêu về kinh tế:
+Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân hằng năm từ 7,5 - 8%. GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 từ 110 - 113 triệu đồng. Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân hằng năm 9% (trong đó, thu nội địa tăng bình quân 10%/năm, thu xuất nhập khẩu tăng bình quân 4%/năm).
+ Tỷ trọng các ngành trong GRDP đến năm 2025: Công nghiệp - xây dựng từ 35,8 - 36%; dịch vụ từ 37,2 - 37,3%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp từ 17,5 - 17,4%; nông, lâm nghiệp, thủy sản từ 9,5 - 9,3%. Đến năm 2030: Công nghiệp - xây dựng 35,5% (trong đó, công nghiệp 28,7%); dịch vụ 37%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp 19,3%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 8,1%.
+ Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 khoảng 37%; trong đó, phấn đấu xây dựng thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại I vào năm 2025, từng bước xây dựng đô thị sinh thái, thông minh và đạt tiêu chí đô thị loại I vào năm 2030. Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 40%.
+ Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa bình quân 10%/năm.
+ Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GRDP đến năm 2025 trên 30%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân từ 6,8 - 7,3%/năm.
+ Số lượt khách du lịch đến năm 2025 đạt khoảng 12 triệu lượt khách.
+Tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa vào năm 2025 trên 99%.
(2) Nhóm các chỉ tiêu về xã hội:
+ Đến năm 2025, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 71 - 72%. Đến năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 70 - 75%; trong đó, tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35%; số lao động có việc làm tăng thêm 80.000 người.
+ Phấn đấu đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh giảm còn 2,87% (trong đó, tỷ lệ hộ nghèo thuộc đối tượng bảo trợ xã hội khoảng 1,83%)38.
+ Đến năm 2025, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 96%; có 12 bác sỹ/01 vạn dân; 43,6 giường bệnh/01 vạn dân; tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi còn 20%.
+ Đến năm 2025, có 70% trường mầm non, 95% trường tiểu học, 80% trường trung học cơ sở, 60% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia.
+ Đến năm 2025, có 160 xã, chiếm 80% số xã đạt chuẩn NTM (trong đó, 64 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 16 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu); không còn huyện không có xã đạt chuẩn NTM, không còn xã đạt dưới 15 tiêu chí; có 09 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM (trong đó, có 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM nâng cao và NTM kiểu mẫu); phấn đấu trở thành tỉnh đạt chuẩn NTM trước năm 2035.
+ Thu nhập bình quân đầu người tính theo thu nhập thực tế đến năm 2025 từ 68 - 70 triệu đồng.
+ Đến năm 2025, trên địa bàn tỉnh không còn nhà tạm bợ.
(3) Nhóm các chỉ tiêu về môi trường:
+ Đến năm 2025, tỷ lệ dân đô thị được sử dụng nước sạch đạt 90%.
+ Đến năm 2025, 100% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các đô thị và 95% tại các điểm dân cư nông thôn được thu gom và xử lý; 95% chất thải rắn công nghiệp thông thường, 80% chất thải nguy hại, 100% chất thải rắn y tế được thu gom và xử lý.
+ Đến năm 2025, 100% các khu công nghiệp đang hoạt động và 50% cụm công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy trên 50% có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn về môi trường.
+ Đến năm 2025, không phát sinh mới các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và 100% các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nằm trong danh mục được khắc phục ô nhiễm và đưa ra khỏi danh mục.
+ Đến năm 2025, tỷ lệ che phủ rừng đạt 61%.
(4) Nhóm các chỉ tiêu về xây dựng Đảng; quốc phòng, an ninh:
+ Hằng năm, số đảng viên được kết nạp từ 1.500 đảng viên trở lên; số đảng viên được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt tỷ lệ từ 90% trở lên; số tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ từ 90% trở lên, không có tổ chức cơ sở đảng không hoàn thành nhiệm vụ.
+ Công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, giao quân hằng năm đạt 100% chỉ tiêu giao; 100% xã, phường, thị trấn vững mạnh về quốc phòng, an ninh, trên 70% xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện.
- Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 53 đồng chí. Bầu Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII gồm 20 đại biểu chính thức và 2 dự khuyết. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã họp phiên thứ nhất bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy 15 đồng chí: Phan Thái Bình, Võ Xuân Ca, Nguyễn Chín, Phan Việt Cường, Huỳnh Thị Thùy Dung, Lê Văn Dũng, Nguyễn Đức Dũng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Nam Hưng, Nguyễn Thị Thu Lan, Nguyễn Hồng Quang, Trần Văn Tân, Lê Trí Thanh, Lê Trung Thành, Trần Xuân Vinh.
Đồng chí Phan Việt Cường được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Lê Văn Dũng và Lê Trí Thanh được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Đến tháng 1/2024, đồng chí Lương Nguyễn Minh Triết - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch HĐND thành phố Đà Nẵng được Bộ Chính trị điều động, phân công giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Từ đó đến nay, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục được củng cố, kiện toàn.
Hiện nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam gồm các đồng chí: Lương Nguyễn Minh Triết - Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Đức Dũng, Lê Văn Dũng (Phó Bí thư Tỉnh ủy) và các Ủy viên: Lê Trí Thanh, Phan Thái Bình, Huỳnh Thị Thùy Dung, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Nam Hưng, Nguyễn Thị Thu Lan, Trần Xuân Vinh, Phan Văn Bình, Trần Thị Kim Hoa, Nguyễn Hữu Hợp.
- Thời gian: từ ngày 12 - 14/10/2015.
- Địa điểm: Hội trường UBND tỉnh Quảng Nam.
- Thành phần tham dự: Có 349 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 60.100 đảng viên đang sinh hoạt tại 1.180 tổ chức cơ sở đảng.
Đồng chí Tòng Thị Phóng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Bộ Chính trị dự và phát biểu chỉ đạo đại hội.
* Chủ đề đại hội: “Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, phát huy dân chủ, bản sắc văn hóa và truyền thống cách mạng; huy động mọi nguồn lực, quyết tâm đưa Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững, trở thành tỉnh khá của cả nước”.
* Nội dung:
- Đánh giá kết quả nhiệm kỳ qua, đại hội nhấn mạnh: “Trong bối cảnh chung của cả nước, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, biến động tình hình chính trị trong khu vực, việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX gặp không ít khó khăn, thách thức; nhưng với truyền thống cách mạng kiên cường, phát huy dân chủ, bản sắc văn hóa và tinh thần đoàn kết, tự chủ, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Quảng Nam đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng.
Kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô được nâng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Phát triển vùng được quan tâm, tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng được phát huy; diện mạo thành thị, nông thôn có bước phát triển mới. Thực hiện nhiệm vụ đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư đạt kết quả nổi bật. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đại hội XX đề ra.
Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, tránh thiên tai. Khoa học công nghệ, văn hóa – xã hội có tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư được nâng lên. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân ngày càng vững chắc; công tác đối ngoại được tăng cường. Công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách tư pháp đạt được nhiều kết quả. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp được nâng lên, công tác cải cách hành chính đạt được một số kết quả tích cực. Dân chủ XHCN và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội được củng cố về tổ chức, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động.
Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, trọng tâm là tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đạt được những kết quả quan trọng”.
- Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2015-2020: “Tạo bước chuyển mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; phát huy dân chủ, truyền thống cách mạng, bản sắc văn hóa; huy động mọi nguồn lực và tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư để phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm quốc phòng - an ninh; chú trọng công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đến năm 2020, Quảng Nam trở thành tỉnh khá của cả nước”.
- Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu của giai đoạn 2015-2020:
(1) Nhóm các chỉ tiêu phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân (theo phương pháp tính mới) từ 10 - 10,5%/năm. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt từ 75 – 80 triệu đồng (tương đương 3.400-3.600 USD). Tỷ trọng các ngành trong GRDP: nông nghiệp khoảng 10%, công nghiệp-xây dựng khoảng 46%, dịch vụ khoảng 44%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 16%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân trên 15%/năm. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm trên 30% GRDP.
(2) Nhóm các chỉ tiêu về xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm khoảng 2-2,5%/năm. Đến năm 2020, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 10%. Tỷ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt 95%, trung học phổ thông đạt 75%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65% và qua đào tạo nghề đạt 55%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp dưới 40%. Giải quyết việc làm mới tăng thêm 5 năm đạt 75.000 lao động. Phấn đấu đạt 9 bác sĩ và 31,5 giường bệnh/vạn dân. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi. Có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 32%.
(3) Nhóm các chỉ tiêu về môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng đạt 52%. Tất cả các khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Xử lý 90% chất thải rắn (kể cả thông thường và nguy hại), 95% chất thải y tế đạt tiêu chuẩn môi trường. 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh.
(4) Nhóm các chỉ tiêu về xây dựng Đảng, quốc phòng - an ninh: Hàng năm, kết nạp 2.800 đảng viên trở lên. Phấn đấu đến năm 2020, 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở được đào tạo đạt chuẩn. Trên 75% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh. Tất cả các xã, phường, thị trấn đạt chuẩn vững mạnh về quốc phòng - an ninh, trong đó, trên 30% đạt chuẩn vững mạnh toàn diện.
- Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 56 đồng chí. Bầu đoàn Đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII gồm 18 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết. Tại hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí: Nguyễn Ngọc Quang, Phan Việt Cường, Đinh Văn Thu, Võ Xuân Ca, Nguyễn Chín, Lê Văn Dũng, Lê Ngọc Hải, Võ Hồng, Nguyễn Thị Thu Lan, Bhơriu Liếc, Nguyễn Văn Lúa, Nguyễn Viết Lợi, Huỳnh Khánh Toàn, Nguyễn Ngọc Truyền, Trần Xuân Vinh.
Đồng chí Nguyễn Ngọc Quang được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Phan Việt Cường và Đinh Văn Thu được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: từ ngày 26 - 29/9/2010.
- Địa điểm: Hội trường UBND tỉnh Quảng Nam.
- Thành phần tham dự: Có 350 đại biểu chính thức tham dự đại hội
Đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) thay mặt Bộ Chính trị về dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
* Chủ đề đại hội: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, bản sắc văn hóa và truyền thống anh hùng, huy động mọi nguồn lực phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đưa Quảng Nam cơ bản thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
* Nội dung:
- Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Báo cáo chính trị tại Đại hội đã nhấn mạnh: “Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh, suy giảm kinh tế tác động trên nhiều mặt, nhưng với ý chí quyết tâm và tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, Đảng bộ Quảng Nam đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, lãnh đạo Nhân dân trong tỉnh vượt qua khó khăn, thử thách, triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XIX đạt kết quả trên các lĩnh vực.
Kinh tế tăng trưởng khá, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, sản xuất nông nghiệp giữ được ổn định, tạo tiền đề quan trọng cho công nghiệp hóa. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và thực hiện các chính sách xã hội được đẩy mạnh. Quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác cải cách tư pháp, công tác đối ngoại được đẩy mạnh đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống chính quyền các cấp được củng cố kiện toàn; công tác cải cách hành chính đạt được một số kết quả bước đầu; hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên; việc thực hiện tiết kiệm, phòng, chống lãng phí, tham nhũng được chỉ đạo thường xuyên. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vai trò vận động, tập hợp Nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; chất lượng các phong trào quần chúng, các cuộc vận động do Mặt trận và các đoàn thể phát động được nâng lên một bước. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng được tăng cường, công tác xây dựng Đảng được triển khai đồng bộ, có hiệu quả”.
- Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát: “Đẩy mạnh thực hiện toàn diện đường lối đổi mới của Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, truyền thống anh hùng và bản sắc văn hóa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, huy động mọi nguồn lực để phát triển nhanh và bền vững, cải thiện một bước đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Phấn đấu cuối nhiệm kỳ, đưa Quảng Nam phát triển khá ở khu vực miền Trung, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
- Đại hội đề ra các nhóm chỉ tiêu đến năm 2015:
(1) Nhóm chỉ tiêu về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) bình quân trên 13,5%. Năm 2015, GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người đạt trên 35 triệu đồng, gấp 2 lần năm 2010. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm trên 44%, dịch vụ chiếm trên 44% và nông - lâm - ngư nghiệp chiếm dưới 12% trong cơ cấu GDP. Vốn đầu tư xã hội tăng bình quân hằng năm 14%. Thu ngân sách phát sinh kinh tế tăng bình quân hằng năm 25%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 22%/năm. Phấn đấu đến năm 2015, có trên 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới.
(2) Nhóm chỉ tiêu về văn hóa - xã hội: Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm 2,5-3%. Duy trì mức giảm tỷ lệ sinh 0,025%/năm. Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (thể cân nặng) còn dưới 12%. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 75 tuổi. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi vào năm 2014. Phấn đấu đến năm 2015, có trên 75% huyện, thành phố phổ cập THCS đúng độ tuổi; có 30% trường mầm non, 60% trường tiểu học, 40% trường THCS, 15% trường PTTH đạt chuẩn quốc gia. Giải quyết việc làm 5 năm trên 200.000 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt trên 45%. Năm 2015, tỷ trọng lao động nông nghiệp còn dưới 42-43%, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ đạt trên 58%.
(3) Nhóm chỉ tiêu về bảo vệ môi trường: Tăng độ che phủ rừng trên 50%. Trên 97% dân số nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh; 99% dân cư thành thị được cung cấp nước sạch. Trên 95% rác thải đô thị được thu gom và xử lý. Trên 70% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải, chất thải, trong đó, 100% hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
(4) Nhóm chỉ tiêu về xây dựng Đảng, quốc phòng - an ninh: Trên 75% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh. Hằng năm kết nạp trên 2.700 đảng viên. Phấn đấu 100% cán bộ chủ chốt các cấp được đào tạo đạt chuẩn. Phấn đấu trên 90% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn vững mạnh về quốc phòng- an ninh; 50% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn vững mạnh toàn diện.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 55 đồng chí. Bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI gồm 16 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 15 đồng chí: Nguyễn Đức Hải, Nguyễn Văn Sỹ, Lê Phước Thanh, Lê Văn Lai, Phan Như Thạch, Ngô Quý Đức, Bùi Quốc Đinh, Trần Xuân Thọ, Ngô Văn Hùng, Đoàn Văn Viên, Trần Kim Hùng, Nguyễn Thị Kim Dung, Đinh Văn Thu, Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Sự.
Đồng chí Nguyễn Đức Hải được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Văn Sỹ và Lê Phước Thanh được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: từ ngày 6 - 8/12/2005.
- Địa điểm: Hội trường UBND tỉnh Quảng Nam.
- Thành phần tham dự: Có 199/200 đại biểu chính thức đại diện cho 36.403 đảng viên đang sinh hoạt 949 chi bộ, đảng bộ cơ sở tahm dự đại hội.
Đồng chí Phan Diễn - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) thay mặt Bộ Chính trị về dự và phát biểu chỉ đạo đại hội.
* Chủ đề đại hội: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp”.
* Nội dung:
- Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết đại hội XVIII, Báo cáo Chính trị tại đại hội nhấn mạnh: “Năm năm qua, Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam đã phát huy truyền thống đoàn kết, tích cực đổi mới, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội XVIII, tạo tiền đề phát triển những năm tiếp theo.
Kinh tế tăng trưởng khá, đạt và vượt tất cả các chỉ tiêu chủ yếu do đại hội XVIII đề ra; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tích cực. Lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước phát triển đáng kể; đời sống Nhân dân được cải thiện trên nhiều mặt. Kinh tế miền núi chuyển biến trên một số mặt; đời sống Nhân dân cơ bản ổn định, một bộ phận có cải thiện. Giữ vững quốc phòng – an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; thực thi pháp luật có nhiều tiến bộ, pháp chế được tăng cường. Công tác dân vận của Đảng có chuyển biến, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; Mặt trận và các đoàn thể các cấp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn; cải cách hành chính có chuyển biến. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng được nâng lên; đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng được giữ vững”.
- Đại hội đề ra phương hướng chung trong giai đoạn 2005 - 2010: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, quyết tâm đổi mới, tạo bước đột phá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo sự phát triển toàn diện con người. Tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, mở rộng và phát huy dân chủ; đổi mới công tác dân vận, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, chung sức, chung lòng phấn đấu xây dựng xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp”.
- Đại hội đã đề ra các mục tiêu và chỉ tiêu chủ yếu:
(1) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 14%/ năm. Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 900 USD.
(2) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 28%; các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm 18%, phấn đấu thu hút 3 triệu lượt khách vào năm 2010; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5%. Đến năm 2010, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 82% GDP.
(3) Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 1.150 triệu USD, tăng bình quân trên 27%; năm 2010 đạt 350 triệu USD.
(4) Tăng tỷ lệ thu ngân sách kinh tế bình quân hằng năm khoảng 20%; đến năm 2010 đáp ứng cơ bản nhu cầu chi thường xuyên của tỉnh.
(5) Giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn dưới 18% (theo tiêu chí mới); hoàn thành chương trình xóa nhà tạm trên toàn tỉnh.
(6) Giải quyết việc làm mới khoảng 180.000 lao động; chuyển dịch cơ cấu lao động sang lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm trên 45%.
(7) Phổ cập THCS trên toàn tỉnh và phổ cập THPT ở khu vực đô thị và đồng bằng. Trên 80% số xã, phường có trung tâm học tập cộng đồng có chất lượng. Nâng tỷ lệ lao động được đào tạo đến năm 2010 đạt trên 40% lao động xã hội.
(8) Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,04%, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống dưới mức 20% vào năm 2010. Trên 70% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tuổi thọ bình quân đạt 70 tuổi.
(9) Tăng cường khả năng phòng thủ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm.
(10) Bảo vệ môi trường tự nhiên, tạo môi trường đầu tư thuận lợi.
(11) Trên 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 49 đồng chí. Bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội X của Đảng gồm 14 đồng chí, trong đó có 13 chính thức và 1 dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu ra Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí: Vũ Ngọc Hoàng, Nguyễn Đức Hải, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Văn Sỹ, Phan Văn Phờ, Nguyễn Thanh Lam, Vũ Minh Sơn, Võ Đình Nhơn, Lê Minh Ánh, Nguyễn Đình Hòa, Thái Văn Lữ, Đinh Mướk, Bùi Quốc Đinh.
Đồng chí Vũ Ngọc Hoàng được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Đức Hải, Nguyễn Xuân Phúc được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Từ ngày 5 - 8/12/2000.
- Địa điểm: Thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Thành phần tham dự: Có 300 đại biểu chính thức thay mặt cho 28.279 đảng viên trong Đảng bộ.
Đồng chí Phạm Thế Duyệt - Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị (khóa VIII) dự và phát biểu chỉ đạo tại đại hội. Dịp này, đồng chí Võ Chí Công - nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Mai Thúc Lân, Ủy viên BCH Trung ương Đảng - Phó Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi điện chúc mừng.
* Nội dung:
- Đại hội đánh giá tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ 1997 - 2000, nhấn mạnh: “Toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân đã nỗ lực phấn đấu, từng bước khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định, có những mặt tăng trưởng, tạo tiền đề cho bước phát triển trong những năm đến.
Kinh tế ổn định, có mặt tăng trưởng, nội lực nền kinh tế bước đầu được khơi dậy và phát huy; trên lĩnh vực xã hội đạt được nhiều tiến bộ, văn hóa phát triển, dân trí từng bước được nâng lên, đời sống nhân dân nhìn chung ổn định và có mặt được cải thiện. An ninh quốc phòng được giữ vững, tình hình trật tự an toàn xã hội ổn định, luật pháp Nhà nước từng bước được thi hành nghiêm minh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bộ máy chính quyền các cấp từng bước được củng cố và kiện toàn, dân chủ được mở rộng; công tác chỉ đạo điều hành có nhiều tiến bộ. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường và phát huy, công tác vận động quần chúng có những chuyển biến tích cực đã góp phần quan trọng vào việc phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định và phát triển trong các năm qua.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng từng bước được nâng lên. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng bước đầu mang lại những kết quả quan trọng, tinh thần đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng được củng cố và giữ vững, niềm tin trong quần chúng đối với Đảng được nâng lên”.
- Đại hội đã đề ra phương hướng chung: “Phát huy sức mạnh toàn dân, giữ vững khối đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, tập trung khai thác mọi tiềm năng thế mạnh, phát huy nội lực, tạo ra sức mạnh mới trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội hòa cùng nhịp độ phát triển chung của cả nước. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chủ động phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai, chú trọng phát triển nông nghiệp toàn diện tạo tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước và HTX dần dần trở thành nền tảng; bảo đảm kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm nhanh hộ nghèo, cơ bản không còn hộ đói, nâng cao đời sống Nhân dân. Củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới”.
- Đại hội đã đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2005, gồm:
(1) Tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm 10% (bình quân 5 năm qua tăng 7,6%).
(2) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 22% (năm 2000 tăng 18%).
(3) Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 3,5% (năm 2000 tăng 3,1%).
(4) Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm 14% (năm 2000 tăng 12%).
(5) Kim ngạch xuất khẩu của địa phương tăng bình quân hằng năm 25% (năm 2000 tăng 27,2%).
(6) Thu ngân sách phát sinh kinh tế tăng 10% (năm 2000 tăng 5,3%), tăng vốn đầu tư toàn xã hội 32% (năm 2000 tăng 29%).
(7) Giảm tỷ lệ sinh hằng năm 0,7 phần nghìn.
(8) Đến năm 2005 cơ bản không còn hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 10% (năm 2000, tỷ lệ 16,8%).
(9) Trong 5 năm giải quyết việc làm cho 120.000 lao động.
(10) Tuyển quân hàng năm đạt 100%.
(11) Đạt 70% tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh”.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 47 đồng chí. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 12 đồng chí: Nguyễn Đức Hạt, Nguyễn Hữu Mai, Vũ Ngọc Hoàng, Nguyễn Văn Nam, Trần Anh Thắng, Phạm Thị Minh Chiến, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Hạnh Kiểm, Hồ Thanh Hải, Hồ Thị Thanh Lâm, Võ Đình Nhơn, Nguyễn Đức Hải. Đồng chí Nguyễn Đức Hạt được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Vũ Ngọc Hoàng được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: từ ngày 8 - 10/10/1997
- Địa điểm: Thị xã Tam Kỳ.
* Thành phần tham dự: Có 250 đại biểu thay mặt cho hơn 25.000 đảng viên của 14 đảng bộ huyện, thị và 5 đảng bộ trực thuộc.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi điện mừng, với nội dung: “Bộ Chính trị gửi lời chào thân ái tới các đồng chí đại biểu, chúc Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XVII thành công tốt đẹp. Bộ Chính trị mong rằng đại hội sẽ đánh giá đúng tình hình mọi mặt của tỉnh, nhất là phân tích cụ thể những tiềm năng, lợi thế cũng như những khó khăn, thách thức, đề ra được những, nhiệm vụ phù hợp, những giải pháp xác đáng để thực hiện các nhiệm vụ đề ra; xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch, vững mạnh; sáng suốt lựa chọn bầu các đồng chí có đủ phẩm chất và năng lực tham gia BCH Đảng bộ khóa XVII. Bộ Chính trị tin tưởng rằng, Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam sẽ thu được những thắng lợi mới trong tiến trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước”.
Đại hội vinh dự đón tiếp đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, do Bí thư Thành ủy lâm thời Trương Quang Được đến dự và phát biểu, gửi đến Đại hội và Nhân dân Quảng Nam những lời chúc mừng nồng nhiệt và tặng bức trướng mang dòng chữ: “Quảng Nam - Đà Nẵng, Trung dũng kiên cường, đoàn kết thủy chung, quyết tâm xây dựng quê hương giàu mạnh”.
* Nội dung:
- Đánh giá tình hình năm đầu tái lập tỉnh (1997), Đại hội nhấn mạnh: “Từ đầu năm đến nay, trong điều kiện phải chỉ đạo thực hiện chủ trương chia tách tỉnh đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật Nhà nước và các nguyên tắc Đảng, giữ vững tình đoàn kết anh em giữa hai Đảng bộ và Nhân dân của tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, các công việc quan trọng và thường xuyên của tỉnh được chỉ đạo đạt được những kết quả quan trọng. Tình hình kinh tế - xã hội từng bước ổn định và có phát triển; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; bộ máy chính quyền đã có nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo thực hiện, từng bước đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý và cải cách hành chính Nhà nước; mặt trận và các đoàn thể nhân dân có nhiều cố gắng trong công tác vận động quần chúng; công tác xây dựng Đảng tiếp tục được tăng cường trong điều kiện mới góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ”.
- Đại hội đề ra phương hướng và mục tiêu chủ yếu đến năm 2000, trong đó nhấn mạnh: “Quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng, phát huy những thành tựu đạt được, động viên toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân nêu cao tinh thần tự lực, tự cường và những truyền thống tốt đẹp của con người Quảng Nam, khai thác các tiềm năng của tỉnh, đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế theo cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ; chú trọng củng cố và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Khẩn trương cải tạo, nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo mọi động lực để phát triển kinh tế và tăng nhanh khả năng tài chính của địa phương; kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, chú ý chăm lo các đối tượng được hưởng chính sách, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng; giữ vững ổn định chính trị và đảm bảo trật tự an toàn xã hội”.
- Đại hội đã đề ra những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2000, gồm:
(1) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm 10% (năm 1996 tăng 8,2%).
(2) Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân hằng năm 4%, đảm bảo nhu cầu lương thực trên địa bàn.
(3) Giá trị sản xuất CN-TTCN tăng bình quân hằng năm 22%.
(4) Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm 25% và trong 4 năm đạt 55 - 60 triệu USD.
(5) Tăng thu phát sinh kinh tế phần ngân sách địa phương bình quân hằng năm 12%, tăng vốn đầu tư toàn xã hội 30%/ năm.
(6) Giảm tỷ lệ sinh bình quân hằng năm trên 0,7 phần nghìn.
(7) Đến năm 2000 xóa hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 20%
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 47 đồng chí. Ngày 11/10/1997, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị lần thứ nhất bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí. Nguyễn Đức Hạt, Nguyễn Hữu Mai, Lê Trí Tập, Nguyễn Văn Nam, Hoàng Châu Sinh, Hồ Văn Điều, Lương Văn Hận, Vũ Ngọc Hoàng, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Hạnh Kiểm, Võ Văn Tiên, Phạm Thị Minh Chiến. Đồng chí Nguyễn Đức Hạt được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Lê Trí Tập được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Từ ngày 24 đến ngày 27/4/1996.
- Địa điểm: hội trường Lý Tự Trọng, thành phố Đà Nẵng.
- Thành phần tham dự: Có 349 đại biểu, thay mặt cho hơn 45.518 đảng viên của 16 Đảng bộ huyện, thị, thành phố và 12 Đảng bộ trực thuộc.
* Nội dung:
- Đại hội đánh giá tình hình các mặt công tác nhiệm kỳ 1991-1996, khẳng định: “Trong điều kiện có nhiều khó khăn phức tạp, Đảng bộ quán triệt đường lối đổi mới, đã đạt được những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Về cơ bản đã khắc phục được những trì trệ kéo dài từ nhiều năm và đang tạo được những tiền đề để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới. Đường lối Đổi Mới của Đảng được kiên trì thực hiện theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và đạt được những thành tựu đáng kể. Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng và có mặt phát triển khá, năng lực sản xuất của một số ngành tăng thêm. Các mặt văn hóa - xã hội có tiến bộ, quốc phòng, an ninh được đảm bảo, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp được nâng lên, hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể có chuyển biến, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Cơ bản hoàn thành những mục tiêu chủ yếu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ và niềm tin của nhân dân vào đường lối Đổi Mới được củng cố và tăng cường, sức sản xuất bước đầu được khơi dậy phù hợp với cơ chế mới của nền kinh tế; đó là những điều kiện để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả vẫn còn một số khuyết điểm, yếu kém, tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm; văn hóa xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc; an ninh chính trị còn tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định; công tác xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Đảng chưa tạo được những chuyển biến quan trọng”.
- Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung của nhiệm kỳ 1996-2000, trong đó nêu rõ: “Trên cơ sở tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối Đổi Mới của Đảng, cần động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh nêu cao tinh thần độc lập tự chủ; tự lực tự cường, ra sức khai thác thuận lợi, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường công tác xây dựng Đảng, thực hiện cải cách hành chính, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, cùng với cả nước chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
- Đại hội đề ra các nhiệm vụ cụ thể: “Ổn định và đẩy mạnh phát triển kinh tế: tập trung mọi nguồn lực để đẩy mạnh quá trình chuyển sang cơ cấu kinh tế công - nông - thương mại - du lịch và dịch vụ. Phấn đấu đến năm 2000, cơ cấu giá trị trong GDP của công nghiệp - nông nghiệp - thương mại, du lịch dịch vụ đạt: 38% - 19% - 43%. Nỗ lực giải quyết tốt hơn những vấn đề văn hóa - xã hội gắn liền với tăng trưởng kinh tế. Để giáo dục thực sự trở thành quốc sách hàng đầu phải có quan điểm đầu tư đúng và hợp lý từ nguồn ngân sách Nhà nước, đồng thời triển khai sâu rộng và thể chế hóa phương châm xã hội hóa tận dụng mọi nguồn lực để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nâng cao chất lượng hoạt động làm cho khoa học và công nghệ thực sự gắn với thực tiễn sản xuất và đời sống, thiết thực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí xuất bản theo hướng tiếp tục triển khai có hiệu quả 3 chương trình mục tiêu về văn hóa của Nhà nước”.
- Đại hội thống nhất đề ra những chỉ tiêu chủ yếu: “Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm 14%, đến năm 2000 đạt mức GDP bình quân đầu người trên 500 USD; giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 22 - 23%; giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 4%, đảm bảo nhu cầu lương thực trên địa bàn; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm 25% và trong 5 năm đạt 1 tỷ USD; tăng thu ngân sách bình quân hằng năm 18-20%, tăng vốn đầu tư toàn xã hội 40%/năm; giảm tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên bình quân hằng năm trên 0,6%; đến năm 2000, xóa hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 10%”[19].
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 47 đồng chí; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng gồm 17 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết. Tại phiên họp thứ nhất ngày 29/4/1996, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy 11 đồng chí, gồm: Mai Thúc Lân, Trương Quang Được, Nguyễn Đức Hạt, Hồ Văn Điều, Lương Văn Hận, Nguyễn Hạnh Kiểm, Phan Như Lâm, Nguyễn Hữu Mai, Nguyễn Văn Tâm, Lê Trí Tập, Nguyễn Bá Thanh. Đồng chí Mai Thúc Lân được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Trương Quang Được và đồng chí Nguyễn Đức Hạt giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Vòng 1 từ ngày 18 đến ngày 21/4/1991; Vòng 2 từ ngày 16 đến ngày 19/10/1991
- Địa điểm: hội trường Lý Tự Trọng, thành phố Đà Nẵng.
- Thành phần tham dự: có 353 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 45 nghìn đảng viên của 26 Đảng bộ huyện, thị, thành phố và Đảng bộ trực thuộc.
Đồng chí Võ Chí Công - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, được Ban Bí thư Trung ương Đảng giới thiệu về ứng cử làm đại biểu của tỉnh đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự và chỉ đạo Đại hội Vòng 2.
* Nội dung vòng 1
- Thông qua bản tổng hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong tỉnh tham gia góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội VII của Đảng.
- Đại hội bầu đoàn đại biểu của Đảng bộ tỉnh đi dự Đại hội VII của Đảng gồm 22 đại biểu chính thức và 01 đại biểu Dự khuyết.
* Nội dung vòng 2
- Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ XIV, nhấn mạnh: “Trong nhiệm kỳ qua, tình hình có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng bộ đã tập trung sức lãnh đạo đưa Nghị quyết Đại hội VI của Đảng vào thực tiễn của địa phương, nêu cao ý chí tự lực tự cường vượt qua nhiều khó khăn, giành được một số kết quả bước đầu quan trọng về đổi mới kinh tế- xã hội, đời sống nhân dân ổn định, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội về cơ bản được giữ vững, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể được chú trọng. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, đầu tư lớn nhưng hiệu quả chưa nhiều, việc quản lý đất đai chưa chặt chẽ, tỷ lệ tăng dân số còn cao. Việc quản lý nhà nước theo pháp luật còn nhiều sơ hở, công tác xây dựng Đảng chưa theo kịp đổi mới.
- Đại hội xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm (1991 - 1995), đó là: “Phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự cường, vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh và học hành. Ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, nhất là tệ tham nhũng, từng bước khắc phục bất công xã hội. Phấn đấu cùng cả nước đến năm 1995 căn bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội”.
- Đại hội thống nhất các mục tiêu cơ bản: “Đẩy mạnh thực hiện 3 chương trình kinh tế, đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu để tăng năng suất lao động, tạo nên khối lượng sản phẩm lớn ở các hướng chiến lược chủ yếu bằng con đường sản xuất hàng hóa, giải quyết cơ bản vấn đề lương thực. Đến năm 1995, phấn đấu đạt tổng sản lượng lương thực 50 vạn tấn; giá trị tổng sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 385 tỷ (giá cố định năm 1989) tăng bình quân hàng năm 7%; kim ngạch xuất khẩu đạt 50 triệu USD; tập trung đầu tư cho một số ngành và sản phẩm chủ yếu nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách, đảm bảo tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh đạt 20%-22% thu nhập quốc dân; phấn đấu hạ tỷ lệ tăng dân số từ 2,03% xuống 1,7%; có biện pháp tích cực đồng bộ nhằm thu hẹp dần và tiến tới từng bước xóa bỏ những vùng thiếu đói triền miên; tạo sự chuyển biến đáng kể đối với đô thị, trung du và miền núi”.
- Đại hội đề ra phương châm chỉ đạo đối với toàn Đảng bộ là: “Giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. Kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài hòa các lợi ích, phát huy lòng yêu nước và tự hào dân tộc, truyền thống trung dũng kiên cường vào công cuộc lao động sáng tạo, xây dựng quê hương giàu mạnh. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và có nguyên tắc, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các lĩnh vực khác. Phát huy tinh thần tự lực tự cường, trên cơ sở tiềm năng của tỉnh, có chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh, sử dụng triệt để vai trò động lực của khoa học và công nghệ, đồng thời mở rộng liên doanh, liên kết để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
- Đại hội kiến nghị Trung ương những vấn đề lớn, có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực an ninh - chính trị, kinh tế - xã hội, nhất là: “Đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu chưa tách thì cho một quy chế riêng để xây dựng Đà Nẵng thành một “Đặc khu kinh tế của duyên hải miền Trung” hoặc “Khu kinh tế mở”…”.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 49 đồng chí. Tại Hội nghị lần thứ nhất, ngày 20/10/1991, Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy 10 đồng chí, gồm: Nguyễn Văn Chi, Trần Đình Đạm, Hồ Văn Điều, Nguyễn Đức Hạt, Lê Quốc Khánh, Nguyễn Minh Hùng, Phạm Phát, Nguyễn Rã, Võ Xuân Sanh, Nguyễn Văn Trí. Đồng chí Nguyễn Văn Chi được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Lê Quốc Khánh và Trần Đình Đạm được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: từ ngày 21 – 29/10/1986
- Địa điểm: hội trường Lý Tự Trọng, thành phố Đà Nẵng.
- Thành phần tham dự : có 546 đại biểu chính thức đại diện cho 39.285 đảng viên thuộc hơn 1.000 tổ chức cơ sở đảng.
Đồng chí Võ Chí Công - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ) dự và phát biểu chỉ đạo đại hội.
* Nội dung:
- Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XIII, Báo cáo Chính trị tại đại hội nhấn mạnh: “Giai đoạn 1981-1985, Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII trong bối cảnh tình hình đất nước vừa phải đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, vừa phải tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nền kinh tế của nước ta nói chung, của tỉnh nói riêng còn nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế quản lý kinh tế theo kiểu tập trung, bao cấp; các nguồn lực chưa được phát huy để phát triển; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; việc lãnh đạo, điều hành có “một số sai lầm, khuyết điểm”.
- Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu và những biện pháp lớn về kinh tế - xã hội giai đoạn 1986 - 1990, là: “Động viên Đảng bộ, quân, dân toàn tỉnh phát huy truyền thống trung dũng kiên cường, quyền làm chủ tập thể, đẩy mạnh phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đổi mới cách nghĩ, cách làm, giải phóng năng lực sản xuất hiện có, khai thác và phát huy mọi tiềm năng để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, mở rộng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý, dồn sức phát triển nông nghiệp toàn diện, thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; từng bước lập lại trật tự trên mặt trận phân phối lưu thông, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất mới; tiếp tục xây dựng có trọng điểm cơ sở vật chất kỹ thuật, nhằm ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân, tạo điều kiện cho bước phát triển kinh tế - xã hội của những năm tiếp theo”.
- Đại hội đã đề ra 5 mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 1986 - 1990:
(1) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, huy động mọi lực lượng cho ổn định và phát triển sản xuất nhằm đáp ứng tốt hơn những nhu cầu cấp bách và thiết yếu của xã hội, dần dần ổn định và tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
(2) Tạo ra một chuyển biến đáng kể về mặt xã hội. Trước hết, tập trung giải quyết việc làm cho những người đến tuổi lao động ở thành thị; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào miền núi, thực hiện tốt các chính sách xã hội và từng bước thực hiện công bằng xã hội, đấu tranh khắc phục có hiệu quả những hiện tượng tiêu cực.
(3) Tạo ra tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, triệt để tiết kiệm, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có trọng điểm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
(4) Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức và phương pháp thích hợp, trước hết củng cố và tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa thật sự chiếm vai trò chủ đạo, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý mới, lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
(5) Bảo đảm các nhu cầu của quốc phòng và an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội”.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 45 Ủy viên chính thức và 07 Ủy viên Dự khuyết; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội VI của Đảng gồm 25 đại biểu chính thức và 02 đại biểu Dự khuyết. Tại hội nghị thứ nhất, ngày 4- 5/11/1986, Tỉnh ủy bầu Ban Thường vụ gồm 13 đồng chí: Nguyễn Văn Chi, Nguyễn Thành, Trần Đình Đạm, Phạm Thanh Ba, Hồ Văn Điều, Võ Hiên, Võ Đắc Hợi, Đặng Văn Pháo, Võ Xuân Sanh, Lê Thế Tiệm, Hồ Thị Kim Thanh, Nguyễn Hồng Thắng, Nguyễn Văn Trí. Đồng chí Nguyễn Văn Chi được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Thành, Trần Đình Đạm được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Vòng 1 từ ngày 6 đến ngày 13/1/1982; Vòng 2 từ ngày 3 đến ngày 4/2/1983.
- Địa điểm: hội trường Lý Tự Trọng, thành phố Đà Nẵng.
- Thành phần tham dự: 553 đại biểu, đại diện cho hơn 28.000 đảng viên của Đảng bộ (Vòng 1) và 534 đại biểu chính thức, đại diện cho 30.742 đảng viên của Đảng bộ (Vòng 2).
Đại hội vinh dự được đón tiếp đồng chí Võ Chí Công - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dự và phát biểu chỉ đạo tại đại hội.(Vòng 1). Đồng chí Đỗ Mười - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ về dự và phát biểu chỉ đạo tại đại hội (Vòng 2).
* Nội dung vòng 1
- Góp ý vào các bản dự thảo: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Báo cáo công tác xây dựng Đảng, Báo cáo về một số vấn đề về bổ sung Điều lệ Đảng trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Đại hội cũng quán triệt Lời phát biểu của đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 10, khóa IV
- Đại hội quyết định phát động đợt thi đua trong toàn Đảng bộ và nhân dân cả tỉnh lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ V; trong đó tập trung vào việc chăm bón vụ sản xuất Đông Xuân, trồng dâu, phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.
- Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V gồm 31 đại biểu chính thức, trong đó có 3 đại biểu do Ban Chấp hành Trung ương Đảng giới thiệu về ứng cử tại Đại hội tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
* Nội dung vòng 2
- Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, nhấn mạnh: “Ba năm 1980 - 1982, Đảng bộ và Nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu giành được thắng lợi trên nhiều mặt. Tiềm năng của 4 thế mạnh bước đầu được khai thác, sử dụng; cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tiếp tục được tăng cường; quan hệ sản xuất mới được củng cố một bước, nhất là trong nông nghiệp; công tác phân phối lưu thông đã được cải tiến một bước theo hướng chống bao cấp và đi vào kinh doanh xã hội chủ nghĩa; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội căn bản được giữ vững, lực lượng quốc phòng toàn dân được tăng cường một bước; cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được hình thành từ tỉnh đến cơ sở và bước đầu phát huy.
- Đại hội xác định nhiệm vụ chung của Đảng bộ và Nhân dân trong tỉnh trong 3 năm 1983-1985 và những năm 80 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy truyền thống trung dũng kiên cường, tinh thần cách mạng tiến công và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đẩy mạnh liên tục phong trào thi đua nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật; phát triển sản xuất đi đôi với tổ chức lại sản xuất, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, mở rộng liên kết kinh tế trong và ngoài tỉnh, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và bảo đảm đánh thắng trong mọi tình huống chiến tranh, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc, mạnh mẽ hơn trong kế hoạch 5 năm (1986 - 1990).
- Đại hội đề ra 5 mục tiêu chủ yếu:
(1) Nỗ lực khai thác mọi tiềm năng để đẩy mạnh sản xuất, tạo bước chuyển biến mới trên lĩnh vực phân phối lưu thông nhằm ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết tập trung giải quyết căn bản về ăn, một bước về mặc, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu về ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, vui chơi, giải trí;
(2) Trên cơ sở quy hoạch, tổ chức lại sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh, tiếp tục xây dựng có trọng điểm cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đặc biệt cần tập trung sức tăng nhanh nguồn điện, ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật để đẩy mạnh, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế;
(3) Hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp và công nghiệp, tiếp tục cải tạo thương nghiệp, nghề cá và tiểu thủ công nghiệp; (4) tăng cường lực lượng quốc phòng và an ninh bảo vệ Tổ quốc, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế;
(5) Thực hiện cuộc vận động xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh; kiện toàn và phát huy hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước quản lý.
- Đại hội bầu Ban Chấp Đảng bộ tỉnh gồm 49 ủy viên, trong đó có 4 ủy viên dự khuyết. Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ nhất đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 15 đồng chí: Hoàng Minh Thắng, Võ Văn Đồng, Võ Văn Đặng, Phạm Đức Nam, Nguyễn Thành Long, Trần Văn Đán, Lê Đào, Phan Đấu, Nguyễn Thành, Phạm Việt Dũng, Phạm Bân, Nguyễn Văn Chân, Trần Đình Đạm, Hồ Văn Điều, Trịnh Ngoạn. Đồng chí Hoàng Minh Thắng được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Võ Văn Đồng được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Từ ngày 12-15/12/1979.
- Địa điểm: Hội trường Lý Tự Trọng, thành phố Đà Nẵng.
- Thành phần tham dự: có 495 đại biểu đại diện cho 25.719 đảng viên của Đảng bộ.
Đại hội vinh dự được đón đồng chí Thiếu tướng Đoàn Khuê - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 5 đến dự và phát biểu chỉ đạo.
* Nội dung:
- Đánh giá tình hình nhiệm kỳ 1977-1979, Đại hội khẳng định: “Thành tích nổi bật của tỉnh trong hai năm qua là vừa cải tạo, vừa xây dựng để phát triển sản xuất, nâng cao văn hóa, giải quyết đời sống. Đặc biệt là tăng nhanh sản lượng lương thực, trang trải phần lớn nhu cầu tại chỗ, khôi phục các ngành nghề truyền thống, phát triển công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp, làm thêm nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu; sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và thông tin, thể dục thể thao đều phát triển; đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Công tác quân sự địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu và trực tiếp góp phần phục vụ chiến đấu... có những bước tiến quan trọng. Công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nhiều thành tích. Sức chiến đấu, năng lực và trình độ lãnh đạo của các cấp ủy Đảng được nâng lên một bước; chính quyền từ tỉnh đến cơ sở có tiến bộ về năng lực tổ chức thực hiện, quản lý kinh tế và quản lý xã hội; công tác đoàn thể có phát triển; đội ngũ cán bộ lớn mạnh và đa số trưởng thành thêm một bước.
- Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong hai năm 1980 - 1981 là: “Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm của Trung ương, phát huy lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống đoàn kết nhất trí, trung dũng kiên cường, cần cù và sáng tạo, tự lực tự cường và tinh thần cách mạng tiến công, dám nghĩ, dám làm, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của Nhân dân lao động, dấy lên phong trào cách mạng sôi nổi, liên tục, nhằm khai thác và sử dụng tốt nhất lao động, tài nguyên, phát huy 4 thế mạnh về kinh tế để phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống, sẵn sàng chiến đấu, từng bước xây dựng địa phương thành tỉnh có cơ cấu công – nông nghiệp, giàu về kinh tế, vững mạnh về chính trị và quốc phòng, có cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng cả nước hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 44 đồng chí, trong đó có 43 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Ngày 18-19/12/1979, Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ nhất đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí: Hồ Nghinh, Võ Văn Đồng, Hoàng Minh Thắng, Võ Văn Đặng, Phạm Đức Nam, Nguyễn Thành Long, Phan Hoan, Trần Văn Đán, Nguyễn Thành, Phan Đấu, Lê Đào, Phạm Việt Dũng, Nguyễn Văn Chi. Đồng chí Hồ Nghinh được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Võ Văn Đồng, Hoàng Minh Thắng được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian:
- Vòng 1: Từ ngày 10/11 đến ngày 18/11/1976
- Số lượng đại biểu: 488 đại biểu thay mặt cho 20.185 đảng viên của 34 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy.
- Vòng 2: Từ ngày 25/4 đến ngày 2/5/1977
- Số lượng đại biểu: 472 đại biểu trong số 503 đại biểu chính thức được triệu tập và 28 đại biểu dự thính, đại diện cho 34 đảng bộ trực thuộc Đảng bộ tỉnh.
* Địa điểm: Hội trường số 17, Lý Tự Trọng, thành phố Đà Nẵng.
* Nội dung:
- Đóng góp ý kiến vào dự thảo Đề cương Báo cáo chính trị và dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (Vòng 1).
- Tổng kết 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; biểu dương đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên toàn tỉnh đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc; ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập và tự do của Tổ quốc, vì sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng, của nhân dân ta.
- Đánh giá tình hình sau ngày giải phóng, đại hội nhận định: Đảng bộ đã đoàn kết nhất trí, phát huy tư tưởng tấn công và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu vào mặt trận sản xuất, xây dựng và đã đạt được những thành tích bước đầu trên các mặt khôi phục và phát triển sản xuất, phát triển văn hóa, ổn định đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và củng cố lực lượng ta về mọi mặt. Khối đoàn kết trong nhân dân được tăng thêm. Công tác xây dựng Đảng có tiến bộ.
- Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ đến năm 1980 là: “Ra sức tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ, kiện toàn chính quyền các cấp, tiếp tục phát động phong trào cách mạng của quần chúng, chủ yếu là phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra một chuyển biến mới trong việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng; xây dựng một bước chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới; đẩy mạnh khôi phục, phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, phấn đấu cải thiện một bước đời sống nhân dân; ra sức bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.
- Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI, gồm 38 ủy viên, trong đó có 35 chính thức và 3 dự khuyết. Ngày 3/5/1977, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) đã bầu ra Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí: Hồ Nghinh, Võ Văn Đồng, Hoàng Minh Thắng, Đỗ Thế Chấp, Nguyễn Huy Chương, Trần Văn Đán, Võ Văn Đặng, Ngô Xuân Hạ, Hoàng Văn Lai, Nguyễn Thành Long, Phạm Đức Nam. Đồng chí Hồ Nghinh được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Võ Văn Đồng, Hoàng Minh Thắng được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Từ ngày 4 đến 10/9/1973
- Địa điểm: Tại căn cứ A7 - vùng giáp ranh giữa Đại Lộc với Nam Giang.
* Nội dung:
- Đại hội đánh giá tình hình địch ta, những khó khăn, thuận lợi và những bước đi của Đảng bộ qua chặng đường máu lửa suốt 19 năm chống Mỹ trên quê hương đất Quảng.
- Đại hội đề ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ là: Ra sức đánh bại lấn chiếm bình định của địch, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta. Hướng tấn công chủ yếu là nhằm vào vùng tranh chấp và vùng địch. Phương châm đấu tranh là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự, đấu tranh ngoại giao. Chú trọng xây dựng các Đảng bộ xã, thôn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác tư tưởng phải làm cho cán bộ, đảng viên thấy rõ tình hình với những diễn biến khó khăn, phức tạp và bản chất ngoan cố, hiếu chiến của địch nhằm phá hoại hiệp định Paris, kéo dài “Việt Nam hoá chiến tranh”. Từ đó, gây cho được chuyển biến nhảy vọt về nhận thức tư tưởng trong cán bộ, đảng viên; quán triệt quan điểm bạo lực cách mạng, phương hướng, phương châm, tình hình nhiệm vụ mới, đánh giá đúng địch ta, phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, nêu cao lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.
- Về công tác tư tưởng, Đại hội đề ra chủ trương mở các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân nhằm xác định đúng đắn mục tiêu lý tưởng, khắc phục biểu hiện tư tưởng hữu khuynh, cá nhân chủ nghĩa, bi quan tiêu cực, hoài nghi thắng lợi, hòa bình chủ nghĩa, giảm sút ý chí chiến đấu, ngại hy sinh ác liệt. Toàn Đảng bộ, toàn quân tập trung mọi nỗ lực nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn cách mạng mới.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 29 đồng chí, trong đó có 2 ủy viên Dự khuyết; Ban Thường vụ Đặc Khu ủy gồm 9 đồng chí: Trần Thận, Trần Văn Đán, Phạm Đức Nam, Trần Văn Tân, Trần Hưng Thừa (Bắc), Hoàng Văn Lai (Đẩu), Phan Hoan, Nguyễn Hồng Thắng, Nguyễn Nhĩ. Đồng chí Trần Thận được bầu giữ chức Bí thư Đặc Khu ủy; các đồng chí Trần Văn Đán, Phạm Đức Nam được bầu giữ chức Phó Bí thư Đặc Khu ủy.
- Thời gian: Từ ngày 10 đến ngày 20/3/1973.
- Địa điểm: Thôn 1, xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước.
* Nội dung:
- Đại hội tổng kết một cách toàn diện các mặt hoạt động của Đảng bộ suốt trong những năm dài kháng chiến chống Mỹ, trong đó nhấn mạnh: Phong trào cách mạng cả 3 vùng chiến lược đều có sự chuyển biến mới, nhưng do chiến tranh tàn phá nặng nề, nên đời sống nhân dân chưa ổn định, vật chất còn khó khăn, thực lực vũ trang và chính trị còn yếu.
- Đại hội đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn tới là: Ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh tấn công địch, đánh bại mọi âm mưu mới của địch; đấu tranh đòi địch thi hành hiệp định, giữ gìn hòa bình; ra sức xây dựng thực lực mọi mặt, đẩy lên một cao trào chính trị mạnh mẽ ở vùng địch, khẩn trương xây dựng căn cứ địa (cả miền núi và đồng bằng) một cách toàn diện thành hậu phương vững chắc. Đại hội cũng đề ra nhiệm vụ xây dựng chính quyền, mặt trận và đoàn thể vững mạnh, tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh phản công và tiến công địch.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 20 đồng chí; Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí: Hoàng Minh Thắng, Vũ Văn Quỳnh (Vũ Văn Đoàn), Phan Ngọc Ánh, Nguyễn Đức Bốn, Ngô Hiên, Nguyễn Hoán, Nguyễn Thành, Võ Thiếp. Đồng chí Hoàng Minh Thắng được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Vũ Văn Quỳnh (Vũ Văn Đoàn) được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Đại hội đã thổi luồng sinh khí mới vào phong trào cách mạng trong tỉnh, làm dấy lên phong trào thi đua giết giặc lập công trong cán bộ, đảng viên trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, binh vận. Đây là đại hội cuối cùng trong kháng chiến chống Mỹ, đề ra phương hướng nhiệm vụ mới cho giai đoạn bước ngoặt của sự nghiệp giải phóng hoàn toàn quê hương Quảng Nam.
- Thời gian: Từ ngày 20 đến ngày 25/8/1971
- Địa điểm: Tại xã Tà Pơ, huyện Nam Giang.
- Đại biểu tham dự: các đoàn đại biểu của 3 huyện đồng bằng (Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại Lộc), 3 khu Hòa Vang, thị xã Hội An, thành phố Đà Nẵng và các đoàn đại biểu của lực lượng vũ trang, các cơ quan, đoàn thể xung quanh Đặc khu và khu Lam Sơn.
* Nội dung:
- Đại hội khẳng định những thắng lợi to lớn đã đạt được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhấn mạnh những thành tích nổi bật và dồn dập từ Xuân Mậu Thân đến Xuân Kỷ Dậu và Xuân - Hè 1970 - 1971. Đại hội cũng nêu lên những kinh nghiệm về vận dụng đường lối, phương châm, phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng và xây dựng Đảng, đồng thời chỉ ra những khuyết, nhược điểm cần phải uốn nắn để đẩy mạnh đấu tranh, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
- Đại hội phân tích tình hình chiến trường, đề ra chủ trương đẩy mạnh tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng trên khắp 3 vùng chiến lược, tiêu diệt tiêu hao nhiều sinh lực địch, phối hợp chặt chẽ với cuộc tiến công chiến lược của toàn miền. Đại hội cho rằng tiến công và nổi dậy ở đồng bằng Quảng Đà là đòn trực tiếp đánh vào kế hoạch bình định của địch, tiêu diệt và kìm giữ một bộ phận quan trọng quân cơ động ngụy, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế cô lập, bao vây, chia cắt địch trên chiến trường, tạo ra những khả năng mới để phát triển lực lượng cách mạng. Đại hội phát động cao trào quyết thắng giặc Mỹ xâm lược nhằm đánh bại kế hoạch bình định của địch, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Đặc khu gồm 21 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 09 đồng chí: Hồ Nghinh, Trần Văn Đán, Phạm Đức Nam, Lư Giang, Lê Hoàn, Hoàng Văn Lai, Trần Văn Tân, Nguyễn Thanh Năm (Năm Dừa), Nguyễn Hồng Thắng. Đồng chí Hồ Nghinh được bầu giữ chức Bí thư Đặc Khu ủy; các đồng chí Trần Văn Đán, Phạm Đức Nam được bầu giữ chức Phó Bí thư Đặc Khu ủy.
- Thời gian: Từ ngày 16 đến 30/11/1969
- Địa điểm: Nóc Ông Đề (nay là thôn 5, ở xã Trà Kót, huyện Bắc Trà My).
Đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu ủy 5, thay mặt Ban Thường vụ Khu ủy 5 về dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
* Nội dung:
- Đại hội kiểm điểm sâu sắc các mặt công tác của tỉnh từ sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đến cuối năm 1969; trong đó nhận định: Tuy có tiêu hao nhiều sinh lực địch, nhưng “hiệu suất chiến đấu nói chung thấp, ít có trận nào tiêu diệt gọn một đơn vị địch, phong trào du kích chiến tranh phát triển không đều, quân số giảm sút...”. Do chủ quan không thấy hết âm mưu thâm độc của địch nên thiếu chuẩn bị mọi điều kiện để đánh trả có hiệu quả, nhiều nơi bị bất ngờ, có lúc dao động, chệnh choạng, thiếu bình tĩnh. Đại hội xác định đây là một khuyết điểm hết sức nghiêm trọng của Đảng bộ tỉnh, vì khả năng có nhiều, đáng lẽ ta phải giành được nhiều, nhưng ngược lại, không giành được dân mà lại để mất dân.
- Đại hội chủ trương: Đại hội xác định nhiệm vụ trung tâm của năm 1970 là động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân trong tỉnh ra sức chống “bình định” của Mỹ - ngụy, giữ dân và ra sức diệt kẹp giành dân, mở rộng và xây dựng vùng giải phóng. Tích cực xây dựng thực lực của ta về chính trị, quân sự, kinh tế, nhằm tạo sự chuyển biến mới, cùng với toàn khu, toàn miền đấu tranh giành thắng lợi mới. Tiếp tục nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ, phát triển đảng viên.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 29 đồng chí; Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 7 đồng chí: Trần Thận, Đỗ Thế Chấp, Trần Đình Hiếu, Phan Ngọc Ánh, Võ Văn Đoàn (Võ Văn Quỳnh), Nguyễn Thành, Phạm Xuân Thâm. Đồng chí Trần Thận được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Đỗ Thế Chấp, Trần Đình Hiếu được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Từ ngày 14 đến 18/10/1967
- Địa điểm: Xã Đốc, huyện Bắc Trà My
* Nội dung:
- Về đánh giá tình hình, đại hội nhấn mạnh: Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh đã vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối, phương châm cách mạng của Đảng, vận dụng sáng tạo 3 mũi giáp công, 3 vùng chiến lược, phát huy sức mạnh tổng hợp để thắng địch, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công đi đầu diệt Mỹ. Qua hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, với những nỗ lực cao nhất đế quốc Mỹ vẫn không thực hiện được mục tiêu chiến lược của chúng. Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam đã chịu đựng khó khăn gian khổ, ác liệt, hy sinh to lớn, ra sức đánh địch, càng đánh càng trưởng thành, càng mạnh, sáng tạo ra nhiều cách đánh của từng loại quân, nhiều hình thức đấu tranh chính trị, binh vận, tấn công địch trên cả 3 vùng miền núi, nông thôn đồng bằng và thành phố, thị xã.
- Đại hội phân tích bối cảnh tình hình và đề ra nhiệm vụ, biện pháp thực hiện phương hướng chiến lược của Trung ương Đảng về mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 25 đồng chí; Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí: Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương), Hoàng Nguyên Trường (Nguyễn Hoàng), Hoàng Minh Thắng, Đỗ Thế Chấp, Vũ Văn Đoàn (Vũ Văn Quỳnh), Trần Đình Hiếu, Trần Minh Mẫn, Hoàng Tuấn Nhã, Trương Minh Tân, Nguyễn Thành, Đào Đắc Trinh. Đồng chí Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương) được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Hoàng Nguyên Trường (Nguyễn Hoàng), Hoàng Minh Thắng được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: tháng 12/1964
* Địa điểm: Tại Ô Rây, huyện Đông Giang.
* Nội dung:
- Đại hội nhận định: Mặc dù địch càn quét đánh phá ác liệt, căn cứ miền núi vẫn được giữ vững. Hàng vạn quần chúng nông thôn đã đứng lên hành động cách mạng sôi nổi, quyết liệt với khí thế khởi nghĩa giành chính quyền từng vùng rộng lớn. Ở thành phố phong trào công nhân, học sinh, sinh viên và phật giáo đã phát triển trở thành cao trào.
- Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ trong thời gian tới là: Động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh nỗ lực liên tục tiến công địch, phá ấp, phá kìm giành lại toàn bộ nông, thôn đồng bằng, xây dựng vùng giải phóng thành căn cứ vững mạnh liên hoàn, đẩy mạnh hơn nữa công tác thành phố, nhất là xây dựng phát triển thực lực cách mạng trong nội ô; ra sức xây dựng miền núi vững mạnh về mọi mặt....
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 20 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí: Hồ Nghinh, Trần Thận, Mai Đăng Chơn, Nguyễn Hữu Đức (Đinh Châu), Hà Kỳ Ngộ. Đồng chí Hồ Nghinh được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Trần Thận được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: tháng 12/1964
- Địa điểm: thôn Đồng Linh (nay thuộc thôn Linh Cang, xã Bình Phú, huyện Thăng Bình).
* Nội dung:
- Phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ và hợp pháp đấu tranh với địch bằng phương châm hai chân, ba mũi giáp công; xây dựng vùng giải phóng thành căn cứ vững mạnh liên hoàn, đẩy mạnh hơn nữa công tác thành phố, nhất là xây dựng phát triển thực lực cách mạng trong nội ô; ra sức xây dựng miền núi vững mạnh về mọi mặt...
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị và tư tưởng, ra sức phát triển đảng viên mới, xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng vững mạnh đều khắp, chủ yếu ở đồng bằng, thành phố, thị xã, thị trấn. Tập trung đào tạo và bồi dưỡng công tác cho cán bộ xã, thôn, sửa đổi lối làm việc, bám chặt quần chúng để xây dựng phong trào.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam gồm 15 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí: Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương), Đào Đắc Trinh, Hoàng Tuấn Nhã, Hoàng Minh Thắng, Hoàng Nguyên Trường (Nguyễn Hoàng). Đồng chí Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương) được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Đào Đắc Trinh được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Tháng 01/1963
- Địa điểm: Tại làng Đào (nay thuộc thôn B’Hôồng 1, xã Sông Kôn, huyện Đông Giang).
Nội dung:
- Đại hội quán triệt chủ trương chung của Khu ủy 5 về việc giành quyền làm chủ nông thôn, thực hiện phương châm và quyết định những giải pháp cụ thể nhằm đưa phong trào của thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An phục hồi, phát triển lên nhanh.
- Đại hội quyết định cắt thôn Trung Lương, Lỗ Giáng, xã Hòa Xuân và xã Hòa Thắng thuộc huyện Hòa Vang giao cho Ban cán sự thành phố Đà Nẵng xây dựng làm bàn đạp tiếp cận thành phố. Đại hội giao cho Huyện ủy Hòa Vang và Huyện ủy Điện Bàn cung cấp cán bộ, cơ sở hợp pháp và địa bàn để Ban cán sự Đà Nẵng nhanh chóng tiếp cận vào nội thành. Đại hội cũng giao cho Huyện uỷ Duy Xuyên và Huyện ủy Điện Bàn móc nối xây dựng cơ sở, tổ chức đường dây, cung cấp cán bộ, tạo bàn đạp để Ban cán sự thị xã Hội An hoạt động vào thị xã.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Đà gồm 15 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 4 đồng chí: Hồ Nghinh, Mai Đăng Chơn, Nguyễn Hữu Đức (Đinh Châu), Hà Kỳ Ngộ. Đồng chí Hồ Nghinh được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Cuối năm 1962.
- Địa điểm: Tại Nà Cau (nay là thôn 15, xã Tiên Lãnh, huyện Tiên Phước), Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức hội nghị để rút kinh nghiệm hoạt động mở ra làm chủ nông thôn.
Nội dung:
- Kiểm điểm tình hình, rút ra bài học thực tiễn là phải phát động cho được quần chúng tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ và hợp pháp đấu tranh với địch bằng phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị thì mới đảm bảo thắng lợi và duy trì được thành quả. Tiếp tục phát động quần chúng tại chỗ nổi dậy phá ấp chiến lược, diệt tề giành quyền làm chủ và giải phóng toàn bộ nông thôn, xây dựng làng chiến đấu chống địch bằng 3 mũi giáp công, giữ thế hợp pháp cho quần chúng.
- Chia Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai tỉnh mới: Quảng Nam và Quảng Đà.
- Sau khi chia tách tỉnh, tại Nà Cau, các đại biểu của tỉnh Quảng Nam tiếp tục tiến hành đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V. Đại hội đã thảo luận và bàn các biện pháp nhằm “tiếp tục mở ra giải phóng nông thôn và củng cố giữ vững vùng vừa mới giải phóng và căn cứ. Đại hội đã đề ra chủ trương chú trọng công tác xây dựng Đảng, nhất là việc củng cố các tổ chức cơ sở đảng.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam gồm 21 đồng chí.Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí: Phạm Tứ (Mười Khôi), Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương), Đào Đắc Trinh, Quách Tự Hấp, Dương Loan. Đồng chí Phạm Tứ (Mười Khôi) được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương) và Đào Đắc Trinh được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Tháng 1/1960
- Địa điểm: Tại thôn Adhur (A Duân), huyện Bến Hiên (nay là thôn Adhur thuộc xã Arooi, huyện Đông Giang).
- Số lượng đại biểu: 50 đại biểu chính thức và 20 đại biểu dự thính.
* Nội dung:
- Nghiên cứu Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; kiểm điểm, đánh giá các mặt công tác của Đảng bộ tỉnh từ sau khi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đề ra phương hướng nhiệm vụ theo chủ trương mới của Đảng và học lịch sử Đảng Lao động Việt Nam.
- Đại hội đề ra chủ trương: Phải tạo mọi điều kiện để tiến công hạ uy thế địch, khôi phục phát huy uy thế quần chúng, mở rộng và phát triển lực lượng cách mạng ở đồng bằng; ra sức xây dựng miền núi vững mạnh về mọi mặt làm căn cứ địa cho phong trào cách mạng trong tỉnh. Nhiệm vụ ở đồng bằng, vừa tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, vừa móc nối xây dựng lại cơ sở đảng, rút thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang. Phương châm hoạt động là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.
- Về công tác xây dựng Đảng, đại hội xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ hàng đầu trong thời gian tới, phải kiên trì, thận trọng trong việc phát triển cơ sở, cũng như phát triển đảng viên mới, ra sức kiện toàn lại bộ máy Đảng từ tỉnh đến cơ sở để đủ sức lãnh đạo phong trào.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 19 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí: Trương Chí Cương, Phạm Tứ (Mười Khôi), Vũ Trọng Hoàng (Bốn Hương), Hồ Nghinh, Đỗ Quang Thắng. Đồng chí Trương Chí Cương được Liên Khu uỷ 5 chỉ định giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ; đồng chí Phạm Tứ (Mười Khôi) được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Đại hội đánh dấu bước phát triển mới về phương thức hoạt động: kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và nổi dậy giành quyền làm chủ của quần chúng.
- Thời gian: giữa tháng 3/1952.
- Địa điểm: tại Vườn đình Quế Phương (nay thuộc thôn 4, xã Tiên Lập, huyện Tiên Phước).
* Nội dung: Trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá các mặt công tác, Đại hội quyết định:
- Về quân sự phải lấy du kích chiến là chính, học tập đánh vận động trong điều kiện thuận lợi. Vùng tạm bị chiếm và vùng du kích phải kết hợp chặt chẽ công tác dân vận, ngụy vận, phát triển du kích chiến tranh, lấy dân vận làm căn bản. Vùng du kích, chiến tranh du kích là hình thức đấu tranh chính trị để thúc đẩy toàn bộ các mặt đấu tranh. Vùng tự do cần tăng cường phòng thủ, chống tề điệp.
- Về kinh tế, tài chính phải đẩy mạnh sản xuất lương thực, giải quyết vấn đề nước tưới, đẩy mạnh việc dùng các loại phân, phát triển chăn nuôi, tổ chức sản xuất ở vùng bị chiếm, vùng du kích và vùng căn cứ địa nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ. Tích cực tăng thu, triệt để giảm chi, đẩy mạnh việc thu thuế nông nghiệp, chuẩn bị thu thuế công thương nghiệp và các loại thuế khác...
- Về chính trị phải xây dựng Đảng vững mạnh về mặt tổ chức và tư tưởng. Trong công tác dân vận, mặt trận, cần thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức cho đảng viên, giáo dục đoàn viên, hội viên. Chỉnh đốn tổ chức và lề lối làm việc nhất là ở cơ sở vùng tạm bị chiếm.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, Đại hội quyết định sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo các cấp, tinh giản biên chế, theo chủ trương: “kiện toàn tỉnh, đơn giản huyện, tăng cường xã”, chú trọng “kiện toàn chất, đơn giản lượng” để bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo gọn nhẹ hơn”.
Đại hội cũng thống nhất hợp nhất sáp nhập tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng gồm 22 đồng chí, gồm 16 Ủy viên chính thức và 6 Ủy viên dự khuyết. Ban thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí: Võ Toàn (Võ Chí Công), Võ Văn Đặng, Lê Bình, Nguyễn Ngọc Chấn, Hồ Nghinh, Trần Phát, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Văn Thi. Đồng chí Võ Toàn (Võ Chí Công) được Liên Khu ủy 5 chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng. Đồng chí Võ Văn Đặng, được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, được phân công phụ trách Đà Nẵng, trực tiếp giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.
- Thời gian: Từ ngày 21/2 đến ngày 2/3/1950
- Địa điểm: Đình Đức Bố, làng Bà Bầu, xã Tam Anh (nay là thôn Đức Bố 2, xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành).
* Nội dung: Trên cơ sở đánh giá tình hình cách mạng thời gian qua, đại hội đề ra các nhiệm vụ:
- Tổng động viên nhân, vật, tài lực một cách kiên quyết và triệt để; đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh lên cao độ, làm cho địch hao tổn thất nhiều về mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, đưa đến một cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ địch.
- Ra sức bồi dưỡng thực lực về các mặt kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa để chuẩn bị chuyển giai đoạn; giữ vững vùng tự do, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc kháng chiến. Trong đó, xây dựng miền núi thành căn cứ địa để bảo vệ vùng tự do và làm bàn đạp cho cả tỉnh.
- Phát triển cơ sở cách mạng vùng bị chiếm, xây dựng Đà Nẵng ngang tầm như một tỉnh. Tích cực “xây dựng thành một Đảng quần chúng mạnh mẽ”, phát triển mạnh hơn nữa nhưng không quên củng cố. Chú trọng phát triển đảng trong công nhân, phụ nữ tăng lên gấp 5 lần so với trước, sau đó là cố nông, dân quân du kích.
- Thi hành chủ trương của Trung ương và Liên khu ủy 5, Đại hội chính thức chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Liên Khu ủy 5.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam gồm 15 đồng chí Ủy viên chính thức và 3 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 10 đồng chí: Cao Sơn Pháo, Lê Bình, Nguyễn Thành Lang, Trần Phát, Nguyễn Quốc, Nguyễn Thanh Sơn, Chế Viết Tấn, Hồ Nghinh, Phan Tốn, Nguyễn Văn Tấn. Đồng chí Cao Sơn Pháo được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Lê Bình, Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Thời gian: Ngày 6/1/1949
- Địa điểm: Làng Trung Định, xã Tam An, huyện Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam An, huyện Phú Ninh).
Nội dung:
- Về đánh giá tình hình cách mạng: Đại hội đánh giá: Phong trào du kích chiến tranh ngày càng phát triển. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên còn hạn chế, nhất là trong công nhân lao động.
- Về nhiệm vụ công tác trong thời gian đến: Đại hội chủ trương đẩy mạnh các mặt hoạt động trong vùng địch chiếm, nhất là Đà Nẵng, Hội An và dọc đường Đà Nẵng - Huế; Phát động du kích chiến tranh, xây dựng cơ sở vũ trang, chính trị, địch vận và mở rộng công tác vận động quần chúng sẵn sàng phục vụ bộ đội đánh địch. Huy động toàn dân tích cực chuẩn bị đề phòng những cuộc tiến công, nhảy dù hay đổ bộ của giặc vào vùng tự do. Tăng cường công tác bố phòng ven biển, dọc quốc lộ; cảnh giác, phòng gian bảo mật, cất giấu tài sản, sẵn sàng đối phó với địch trong mọi tình huống.
Đại hội xác định lại tiêu chuẩn kết nạp đảng viên, phát triển phải đi đôi với củng cố. Đồng thời nhấn mạnh: “Tam Kỳ, Hoà Vang, Đại Lộc, Tiên Phước, Trà My, việc củng cố và phát triển phải đi đôi với nhau. Quế Sơn, Thăng Bình lo nhiều về mặt củng cố. Thái Phiên (Đà Nẵng), Hội An, Duy Xuyên, Điện Bàn lo nhiều về phát triển”. Nghị quyết cũng quy định chế độ sinh hoạt cho các cấp và chi bộ, nội dung kiểm thảo trong các kỳ sinh hoạt chi bộ…
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 25 Ủy viên chính thức và 5 Ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 7 đồng chí: Nguyễn Xuân Hữu, Lê Bình, Cao Sơn Pháo, Hoàng Kim Ảnh, Lâm Cự, Nguyễn Quang Chung, Nguyễn Quốc. Đồng chí Nguyễn Xuân Hữu được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Lê Bình, Cao Sơn Pháo được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Cơ quan chủ quản:
Tỉnh ủy Quảng Nam
Giấy phép số: 16/GP-BTTTT, cấp ngày 17/01/2022
Trụ sở tòa soạn: 58 Hùng Vương & 142 Phan Bội Châu, TP.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Điện thoại:
0235.385 2726
Chỉ được phát hành lại thông tin từ website này khi có sự đồng ý bằng văn bản của Báo & Đài PT-TH Quảng Nam
Tổng Biên tập: Mai Văn Tư
Phó Tổng Biên tập:
Nguyễn Hữu Đổng - Trương Văn Nam
Email tòa soạn:
toasoan@baoquangnam.vn / toasoanqno@gmail.com
Website: http://baoquangnam.vn